Bài Viết Mới
Chuyện Hai Ông Mác
Hà Sĩ
Phu
Karl Marx chết đi
để lại trên đời hai “ông Mác”, hai phiên bản cùng một khuôn DNA
nhưng hình thù rất khác nhau: một ông “Mác kinh viện”, một ông là
“Mác hiện thực”.
Lui tới thăm “Mác
kinh viện” trong viện bảo tàng chỉ còn lác đác một vài triết gia
hoặc kẻ muốn làm triết gia, kẻ sùng bái ông hoặc mượn ông để khoe chữ,
một vài chính trị gia đến xin ông vẽ cho lá bùa để đối phó với bọn bất
phục tùng… Họ nói với nhau bằng thứ ngôn ngữ rắc rối, làm khó hiểu
những điều dễ hiểu. Cuộc tranh cãi giữa họ là bất tận, hàng thế
kỷ rồi mà chính họ vẫn chưa hiểu hết nhau. Đám thường dân chúng tôi luôn
kính trọng ông, và hẳn chẳng bao giờ có ý nghĩ dại dột muốn động chạm gì
đến ông (vì thiếu cả ngôn ngữ lẫn thời gian) nếu ông không làm “đầu têu”
cho “Mác hiện thực”.
“Mác hiện thực”
cũng mang khuôn mẫu DNA của học thuyết Mác nhưng phải lăn lộn trong đời
sống, cọ xát với đời sống nên rất sinh động, trở thành ông Mác có hồn.
Ở đây Mác phải trút bỏ bộ áo kinh viện, cắt bớt râu ria và giao lưu với
xã hội bằng thứ ngôn ngữ dễ hiểu, ngắn gọn của đời thường.
Bằng hình thù này Mác
đi vào sách giáo khoa, đi vào những tài liệu tuyên truyền - dân vận, đi
vào mọi đường lối chính sách, mọi cơ cấu xã hội, và đi vào đầu óc mỗi
con người của những xã hội theo mô hình Mác xít.
“Mác hiện thực”
là “Mác sống”, chi phối số phận sướng khổ - buồn vui của biết bao
con người. Quần chúng và đội ngũ trí thức của họ cần đối thọai là
đối thoại với ông “Mác hiện thực” này, bằng thứ ngôn ngữ gọn
gàng, sáng sủa, và dễ hiểu của đời sống. Trong ngôn ngữ của “Mác hiện
thực” những luận điểm cơ bản đã thành công thức, ai cũng thuộc lòng,
nhắc đến là hiểu ngay, chẳng ai đòi trích dẫn sách vở.
(Xin nói thêm: Nếu là
chân lý thì nói gọn thế cũng là chân lý. Sự cao siêu hay tầm thường
không hề phụ thuộc vào sự diễn đạt giản đơn hay phức tạp. Đường tìm chân
lý dù quanh co, rắc rối đến đâu nhưng khi đưa được chân lý về với cuộc
sống nó cũng có bộ mặt đơn giản).
Nhưng những đệ tử
của “Mác kinh viện” chỉ muốn phân biệt ông ra khỏi “Mác hiện
thực”, cho rằng mọi người không hiểu Mác, đang làm sai Mác, chẳng
qua là để bảo vệ một hình tượng Mác trong “tháp ngà”, tránh cho ông cuộc
đối thoại bỗ bã với đời thường. Nhưng tách sao được, học thuyết Mác vừa
giải thích thế giới vừa ra tay cải tạo thế giới, nên lý
thuyết và thực hành gắn bó nhau như hai cánh tay của một con người.
Mác hiện diện trong đời sống dân chúng thì một em nhỏ cũng có quyền
và có khả năng chất vấn ông Mác ấy. Còn như nói chủ nghĩa Mác bị
lợi dụng và làm sai đi, điều này đúng, nhưng tiền đề của sự lợi dụng và
làm sai đó đã nằm sẵn trong chủ nghĩa Mác rồi.
Vả lại, ai là những
người trung gian đã đem giáo lý của “Mác kinh viện” vào cuộc sống
và xây dựng nên hình hài một “Mác hiện thực” sinh động?
Thưa, đây là những
người có tư cách nhất để làm việc này. Đó là những lãnh tụ vô sản Lenin,
Stalin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh…, và một đội ngũ đông đảo những trí
thức thượng thặng của cả phe Xã hội chủ nghĩa (trong đó không thiếu
triết gia) . Vì thế trong những trận đối thoại với cuộc sống, “Mác
hiện thực” là người có đầy đủ “tư cách pháp nhân” để đại diện
cho Mác nói chung và cho “Mác kinh viện” nói riêng.
Thế nhưng, mỗi lần
đối thoại với thực tiễn mà “Mác hiện thực” bị lâm vào thế bí, thì
người ta lại giở ra ngón chống đỡ cổ truyền : Thưa đồng bào, “Mác
hiện thực” tuy có sai lầm với đồng bào, nhưng ông này không phải
“đích tôn” của Mác nên hiểu sai Mác, làm sai Mác, để chúng tôi về bẩm
với “Mác kinh viện” xem sao.
Cuộc tranh cãi lý
thuyết đã diễn ra trên một thế kỷ, hôm nay dù có nói gì , có trích dẫn
gì cũng chỉ là lặp lại.
Ở Việt nam, người có
tư cách triết gia nhất là Trần Đức Thảo , dù bị Đảng Cộng sản trù dập
ông vẫn yêu lý thuyết Mác. Đến năm 1991 ông còn viết một bài phê phán Hà
Sĩ Phu để bảo vệ Mác [1]
(Được triết gia Trần Đức Thảo đọc và nhận xét
là một vinh dự!). Vậy mà đến
những năm cuối đời tại Paris ông cũng không giữ được sự trung thành ấy
nữa. Tác giả Trần Đạo được gặp Trần Đức Thảo trước ngày ông mất thuật
lại : “Tôi lại hỏi ông về trước tác của ông, và nói thật là tôi thấy
chúng máy móc. Ông khoát tay như muốn gạt chúng đi, và đưa cho tôi tác
phẩm cuối cùng còn dưới dạng bản nháp”
[2].
Một người bạn tôi là
nhà nghiên cứu Lữ Phương cũng vậy. Sau khi không còn được trọng dụng ông
vẫn yêu những nét đẹp trong lý thuyết Mác, và nhiều lần bảo tôi “Mác
không đơn giản như ông (HSP) phê phán. Người ta thực hiện sai chứ Mác
vẫn đúng” .
Nhưng đến năm 2007 Lữ
Phương đã viết
khác: “Năm
1986.tôi… tái xuất giang hồ, phấn đấu cho một thứ chủ nghĩa Marx
“đích thực” mà lúc đó tôi vẫn còn tin tưởng vào tính khả thi của nó”.
“Nhưng cũng có một
số tiếp tục con đường đã mở ra và đi cho đến cùng, không quay đầu trở
lại, trong Nam có những Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, Nguyễn Văn Trấn, Hà
Sĩ Phu, Bùi Minh Quốc và một số anh em khác. Cuộc chơi mới đã được đẩy
mạnh hơn lên khi mọi chuyện trong quá khứ đã được nhìn lại từ nền
móng”.
“Đối với
chúng tôi, từ đó trở đi chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam đã mất hoàn
toàn tính chính đáng để tồn tại”.
[3]
Đối với dân chúng,
hiện nay không còn là lúc tranh luận lý thuyết bằng ngôn ngữ triết học
với triết gia Karl Marx nữa, chỉ còn việc dùng lẽ phải thông thường, đúc
kết, để vạch trần tính chất quanh co của những người vô tình hay cố ý
chống lại lẽ phải mà trên bình diện thế giới nó đã được giải quyết rồi.
Những người này luôn muốn đẩy cuộc tranh luận vào chốn rừng rậm sách vở
của “Mác kinh viện” để cuộc tranh luận luôn bất phân thắng bại
,vô ích đối với nhân dân, song rất hữu ích với những kẻ câu giờ, cơ hội.
Một trăm lần vấn
kế “Mác kinh viện” thì một trăm lần họ đưa ra những kiến giải
xuôi ngược khác nhau, như một thứ chân lý vô định, lúc nào cũng còn để
trống, điền câu gì vào cũng được. Mà bài toán xã hội thì cần có đáp số.
Số phận những dân tộc, số phận những con người cần có những đáp số cụ
thể, không thể hẹn đến kiếp sau.
Nếu ta hỏi tiếp : sao
lại tù mù, sao lại tiền hậu bất nhất thế? Liền được trả lời : Thế mới là
Mác! Tư trưởng Mác cao siêu, ngay chúng tôi đây đọc mãi cũng chỉ hiểu
được một phần, chứ Mác tầm thường như các anh tưởng thì Mác đổ từ tám
đời rồi ?
(OK! Nào ta cùng về quê
ông Mác để hỏi, xem ông ấy đã đổ chưa nhá?).
Ừ, cũng cao siêu
thật.
Chẳng biết ai đã Việt
hóa ra cái từ “Mác mít”, mít là mít đặc, marmite lại là
quả lựu đạn, là cái niêu cơm.
HSP (tháng 6-2007)
----------------------------------------------------------
[1]
Trần Đức Thảo
, Giáo sư triết học :Cái gọi là "Tấm biển chỉ đường của Trí tuệ" đi
ngược với tư duy biện chứng của lý trí” . Tạp chí Cộng sản số 2
/1991
[2] Trần Đạo:Trần Đức Thảo một kiếp người,
http://amvc.free.fr/niv1/niv2/Tran%20Duc%20Thao%20mot%20kiep%20nguoi.htm
[3] Lữ Phương,
Tưởng nhớ một người anh em : Talawas 3.4.2007
LÝ LUẬN
VĂN HỌC
BÌNH LUẬN
PHỎNG VẤN
VỤ ÁN LIÊN QUAN
NHÓM ĐÀLẠT
TIỂU SỬ |