Sự khác nhau
giữa Dân chủ và Tự do
Hà
Sĩ Phu-www.talawas.org
http://www.x-cafevn.org/forum/showthread.php?t=26570
http://mangykien.net/?page_id=3
Hai khái
niệm Tự do (Liberty) và Dân chủ (Democracy) xưa nay thường được
hiểu là tương tự, hoặc ít ra thì cũng rất gần nhau, theo hướng
giải phóng con người. Quả thực, trong các nước dân chủ phương
Tây thì hai yếu tố ấy cũng bện chặt vào nhau để tạo nên một nền
Dân chủ - Tự do (liberal democracy). Hầu hết chúng ta đều hiểu
Dân chủ và Tự do là hai yếu tố biến thiên cùng chiều như một cặp
bài trùng. Vì thế cũng không ai mổ xẻ tách bạch sự khác nhau
giữa hai khái niệm ấy làm gì.
Song thực tiễn chính trị đã khiến cho hai từ Dân chủ và Tự do
buộc phải được hiểu một cách chính xác hơn (nhưng vẫn cùng chiều),
rồi thật bất ngờ, dưới bàn tay nhào nặn khéo léo của một số nhà
chính trị ở một số quốc gia, Dân chủ và Tự do không bện chặt vào
nhau nữa, chẳng những rời nhau ra mà có thể còn chống lại nhau.
Từ đó hình thành và phát triển những hệ thống chính trị Dân chủ
- nhưng không Tự do (illiberal democracy).
“Nhiều chính quyền được bầu lên một cách dân chủ, thậm chí các
chính quyền được bầu lại hoặc được tái xác nhận thông qua trưng
cầu dân ý, lại càng bất chấp các giới hạn quyền lực do hiến pháp
qui định và thường tước đi các quyền và những tự do căn bản của
người dân“.
Sự phát hiện điều nghịch lý và khái quát thành lý luận này của
Fareed Zakaria, một nhà báo, nhà triết học chính trị với vốn
sống chính trị phong phú, thuộc số những nhà trí thức hàng đầu
có nhiều ảnh hưởng nhất hiện nay [1], theo tôi là một phát kiến
rất lớn, mặc dù nhiều học giả của thế kỷ 18 và 19 cũng đã bắt
đầu “nhìn thấy trong Dân chủ một sức mạnh có thể gây tổn hại cho
Tự do”.
Thật vậy, Dân chủ trước hết và chủ yếu được hiểu là quyền làm
chủ của dân, là sự can dự của dân vào quá trình hình thành bộ
máy cai trị. Khi một quốc gia tổ chức các cuộc bầu cử đa đảng,
có cạnh tranh, bộ máy cầm quyền do lá phiếu của người dân bầu ra,
không ai áp đặt, chúng ta gọi quốc gia đó là dân chủ.
Còn Tự do, theo nghĩa truyền thống và thường được hiến định, là
các quyền tự nhiên, bất khả nhượng nên còn gọi là Tự do hiến
định (constitutional liberalism), nhằm bảo vệ tính độc lập tự
chủ và nhân phẩm của con người trước những chèn ép về chính trị,
xã hội, tôn giáo và những cái khác.
Nếu muốn coi Dân chủ cũng là biểu hiện của Tự do thì đó là Tự do
chính trị, còn quyền Tự do hiến định chính là Tự do dân sự; một
đằng tạo ra chính quyền, một đằng không ngừng chỉnh lý, khống
chế chính quyền ấy. Vì Tự do là nền tảng, Dân chủ là thượng tầng
nên quan hệ giữa Tự do và Dân chủ là quan hệ hầu như một chiều:
Chủ nghĩa Tự do hiến định dẫn đến Dân chủ, nhưng Dân chủ thì
dường như không mang lại chủ nghĩa tự do hiến định. Gốc nào thì
quả ấy, cho nên “Cái làm thành nét đặc trưng và tạo ra sự khác
biệt giữa các chính quyền tại châu Âu và Bắc Mỹ với các chính
quyền khác trên toàn thế giới không phải là dân chủ mà chính là
chủ nghĩa tự do hiến định. Biểu tượng tốt nhất của “Mô hình
phương Tây” không phải là hệ thống bầu cử đại chúng mà chính là
vị quan tòa không thiên vị” (Zakaria).
Nếu vội vàng tạo lập Dân chủ nơi chính quyền trong khi chưa
giành được những quyền tự do dân sự trong dân chúng thì đó là
thứ Dân chủ không có gốc, nó dễ dàng trở thành phản bội.
Chúng ta vẫn thường nghĩ một cách đạo đức và đơn giản rằng: sự
cảnh giác chỉ cần khi chính quyền đối lập với nhân dân, chứ khi
nhân dân đã tự gánh vác trách nhiệm thì sự thận trọng là không
còn cần thiết. Xin thưa, Alexandr Lukashenko sau khi được bầu
làm Tổng thống Belarus một cách dân chủ với đa số phiếu áp đảo
trong cuộc bầu cử tự do năm 1994, khi được hỏi về việc giới hạn
quyền lực của ông ta, thì chính nhà độc tài này đã tuyên bố “Chế
độ độc tài sẽ không có ở đây. Tôi thuộc về nhân dân, vì vậy tôi
sẽ cống hiến vì nhân dân!“.
Cũng đừng tưởng rằng khi người cầm quyền do dân bầu ra mà chống
lại tự do của dân thì dân sẽ không bầu nữa. Trái lại có thể dân
vẫn bầu, mà còn bầu với số phiếu cao nữa kia! Bởi nếu những
quyền tự do hiến định không được thực hiện thì những thủ thuật
để chiếm lòng dân, để tạo sức mạnh của số đông, để dân lại tiếp
tục bầu là điều không khó khăn gì.
Đối với pháp trị, lòng tin dễ thành thuốc độc, bởi tinh thần căn
bản của luật pháp là dựa trên sự nghi ngờ. Khi đã cố xây dựng
lòng tin làm cẩm nang, làm tiên đề để điều hành xã hội thì luật
pháp sẽ bị vận dụng méo mó, sẽ mất hiệu năng và đó là mầm mống
bành trướng của quyền lực tuyệt đối.
Sau một diễn tiến Dân chủ thường tạo được lòng tin, nhưng lòng
tin lại gây mất cảnh giác nơi dân chúng và là mảnh đất phát sinh
lạm quyền, rồi sự lạm quyền sẽ quay lại chống Tự do. Con đường
Dân chủ chống lại Tự do cứ khép một đường vòng như vậy. Đừng bao
giờ quên rằng khi có quyền trong tay người ta có thể biến thành
một người hoàn toàn khác. Chỉ trong một xã hội có Tự do dân sự
vững chắc thì sự tha hoá của quyền lực mới được kiềm chế và
đường vòng phản hồi chống dân chủ kia mới có khả năng ngăn chặn.
Biết đặt sự nghi ngờ lên trước để xử lý thì lòng tin sẽ đến theo
sau.
Bằng con mắt tinh tường và với một quan điểm lý luận có hệ thống,
Zakaria đã điểm mặt những vùng địa lý chính trị, nơi nào có Dân
chủ-Tự do điển hình, nơi nào tuy chưa thật dân chủ nhưng lại có
Tự do, ngược lại nhiều nơi chưa có Tự do nhưng lại được xếp vào
nước có Dân chủ…
Đặc biệt ông đã nhận ra sự trỗi dậy mạnh mẽ của xu thế Dân chủ
phi Tự do (illiberal democracy), như một lối thoát được ngụy
trang rất khôn ngoan của những chính quyền cố giữ cho được sự
cai trị độc đoán trước một trào lưu dân chủ toàn cầu không thể
chống lại. Những chính quyền ở Peru, Palestin, Sierra Leon,
Slovakia, Kazakstan, Kyrgystan, Pakistan, Belarus,… và những
nhân vật chính trị như Boris Yeltsin, Alexandr Lukashenko,
Alberto Fujimori, Carlos Menem,… là những ví dụ điển hình (khi
ấy là năm 1997, sau này phải kể thêm Vladimir Putin). Theo
Zakaria thì lúc ấy một nửa số các quốc gia đang dân chủ hoá lại
là các chế độ Dân chủ phi tự do (illiberal democracy).
Trước sự trỗi dậy của xu thế có Dân chủ nhưng không có Tự do như
thế, dân Việt Nam phải làm gì để khỏi sa vào?
Chính trị cũng như thị trường, chẳng qua cũng một Quy luật cung
cầu chi phối cả. Có “cầu” ắt có “cung“, và thế nào cũng xuất
hiện bọn “cung đểu” (bọn làm hàng giả), quy luật cạnh tranh sinh
tồn vốn tiềm tàng tính “bất thiện” như thế. Nhân dân cần Dân chủ
và Tự do ư? (và nghĩ rằng hai thứ đó giống nhau), thì sẽ có giới
cầm quyền đứng ra nhận thoả mãn nhu cầu ấy. Nhưng đối với giới
cầm quyền thì món hàng Dân chủ có “giá thành” rẻ hơn lại ít nguy
hiểm hơn so với Tự do, nên họ cứ trưng cái nửa Dân chủ ra trước
đã. Nếu dân là người tiêu dùng hồn nhiên, gặp kẻ tiếp thị có
nghề là “bập” vào ngay. Thế là dân hoan nghênh, dân bầu ngay,
tín nhiệm ngay, rất tự giác, rất dân chủ.
Nhưng như thế là “thượng đế” bị sa bẫy rồi, cái bẫy có tên là
Dân chủ phi Tự do. Khi cái ghế quyền lực đã “đúc bê tông” thì số
phận cái nửa Tự do kia sẽ thế nào là chuyện “hạ hồi phân giải”!
Chỉ khi nào dân trí đã khôn, đã từng trải, mới biết “nắm đằng
chuôi”, mới biết khước từ món “mì chính trị ăn liền” thường rất
đậm đà màu sắc địa phương, mà đòi cho được quyền Tự do hiến định,
tức Tự do dân sự như dân các nước văn minh được hưởng. Điều
tưởng như rất bình dị này mới chính là sản phẩm quốc tế chất
lượng cao, đã được lịch sử kiểm định. Người khôn ngoan không đòi
ngay con cá mà cố giành lấy chiếc cần câu chính là như vậy.
Trong lúc tôi đang băn khoăn, thai nghén những ý tưởng về chủ đề
này thì may mắn thay, cùng một lúc tôi được đọc hai tài liệu
cùng của Fareed Zakaria: cuốn
Tương lai của Tự do (The Future of Freedom) do trang mạng
X-café dịch và đăng nhiều kỳ và bài tiểu luận
“Sự trỗi dậy của các chế độ Dân chủ phi tự do” (The Rise of
Illiberal Democracy) do Phạm Hồng Sơn dịch và Mai Thái Lĩnh hiệu
đính (và được phép chính thức của tạp chí Foreign Affairs). Bài
tiểu luận này viết năm 1997 chính là nòng cốt để tác giả phát
triển thành cuốn The Future of Freedom năm 2003.
Với những độc giả không có nhu cầu tìm hiểu rộng và chi tiết,
chỉ cần nắm được luận điểm chính và những ví dụ điển hình, tôi
nghĩ đọc bài tiểu luận “Sự trỗi dậy của các chế độ Dân chủ phi
tự do” là thích hợp, trong đó tác giả trình bày ý tưởng một cách
ngắn gọn, súc tích và sắc xảo.
Xin chân thành cảm ơn cả hai dịch giả của hai tác phẩm nói trên.
Tháng 5-2009
© 2009 Hà Sĩ Phu
© 2009 talawas blog
________
[1] Fareed Zakaria là một nhà báo Mỹ gốc Ấn Độ. Ông sinh năm
1964 tại thành phố Mumbai (tên cũ là Bombay) thuộc bang
Maharashtra - Ấn Độ, trong một gia đình Hồi giáo. Cha ông là
Rafiq Zakaria (1920-2005), một học giả Hồi giáo và là một chính
trị gia của Đảng Quốc Đại Ấn Độ (Indian National Congress). Mẹ
ông, Fatima Zakaria, đã có thời là biên tập viên của tuần báo
Times of India (Thời báo Ấn độ). Sau khi học trung học tại Ấn Độ,
Zakaria du học tại Hoa Kỳ, tốt nghiệp Cử nhân (B.A.) tại Đại học
Yale và lấy bằng tiến sĩ chính trị học (Ph.D. in Political
Science) tại Đại học Havard - nơi đây ông được hướng dẫn bởi các
vị giáo sư chính trị học nổi tiếng như Samuel P. Huntington và
Stanley Hoffmann. Ông nhập quốc tịch Hoa Kỳ vào năm 2001.
Sau khi tham gia một công trình nghiên cứu của Đại học Havard về
chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ, Zakaria trở thành biên tập viên
điều hành (managing editor) của tạp chí Foreign Affairs (Các vấn
đề đối ngoại) và giữ chức vụ này trong 7 năm (từ năm 1993 đến
năm 2000). Tạp chí này là một tập san chuyên đề bàn về các quan
hệ quốc tế và chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ, được phát hành
hai tháng một lần bởi Hội đồng về Các Quan hệ Đối ngoại (Council
on Foreign Relations, CFR). Tháng 10 năm 2000, ông được bổ nhiệm
làm tổng biên tập (editor) của tạp chí Newsweek International (tức
ấn bản quốc tế của tạp chí Newsweek). Với chức vụ này, ông chịu
trách nhiệm trông nom các ấn bản tiếng Anh ở hải ngoại của tờ
tạp chí nổi tiếng này, được phát hành khắp châu Âu, châu Á, châu
Phi và vùng Trung Đông với trên 3 triệu ruỡi độc giả. Ngoài
nhiệm vụ đó, ông còn thường xuyên viết bài cho các tờ báo nổi
tiếng ở Mỹ như New York Times, Wall Street Journal, Washington
Post, New Republic, v.v… Ông còn cộng tác với nhiều đài truyền
hình nổi tiếng như PBS (2005-2007), ABC (2002-2007) và CNN (từ
tháng 6 năm 2008). Không chỉ là nhà báo, Zakaria còn là tác giả
của một số cuốn sách nổi tiếng như: The Future of Freedom (Tương
lai của Tự do, 2003) và The Post-American World (Thế giới hậu -
Hoa Kỳ, 2008).
Năm 1999, tạp chí Esquire vinh danh ông là “một trong 21 nhân
vật quan trọng của thế kỷ 21″. Năm 2007 ông được các tạp chí
Foreign Policy và Prospect xếp vào danh sách 100 nhà trí thức
hàng đầu được nhiều người biết đến của thế giới. Tháng 1 năm
2009, tạp chí Forbes xếp Zakaria vào danh sách 25 nhà tự do
(liberals) có ảnh hưởng nhất trong giới truyền thông Hoa Kỳ.
Bài báo “Sự trỗi dậy của nền dân chủ phi-tự do” (The Rise of
Illiberal Democracy) công bố trên tạp chí Foreign Affairs vào
tháng 11 năm 1997 là tác phẩm có ảnh hưởng lớn nhất của Zakaria.
(Tư liệu do nhà nghiên cứu Mai Thái Lĩnh cung cấp.)