Văn thơ Hà Sỹ Phu
Bùi Minh
Quốc
“Những cây thông ào vào Tỉnh ủy
Xin đừng đốn chúng tôi”
Đó là hai câu kết
bài thơ “Những cây thông kêu” của Thanh Thảo đăng trên tạp chí
Langbian số 1 tháng 10-1987, vừa phát hành mấy ngày đã gây chấn động.
Chấn động ở phía những con người cảm thấy thân phận mình giống với thân
phận cây thông. Và chấn động đến hốt hoảng ở phía những người đầy quyền
uy nhưng mang mặc cảm mắc tội đốn thông. Hốt hoảng và nổi lôi đình vì
bấy lâu họ chỉ quen nghe tiếng chim trong lồng véo von, nay bỗng nổi lên
một giọng thơ táo tợn, chối tai như vậy.
Cùng với Thanh Thảo,
có một thi nhân , khi ấy còn kín tiếng, đã phát hiện một thảm kịch khác,
rùng rợn hơn nhiều, của thông _ không phải những cây thông kêu,
mà những cây thông... reo !
Thông reo?
Vâng,thông reo. “Kiếp
sau xin chớ làm người, làm cây thông đứng giữa trời mà reo”. Đẹp
thay, hiên ngang thay,sung sướng thay, cái cây thông reo của cụ
Nguyễn Công Trứ.
Nhưng chuyện nói ở
đây chẳng phải thế đâu, dù cũng nói về thông reo. Loại thông này vốn
được người ta trồng làm hàng rào quanh ngôi biệt thự cao sang, nối nhau
bằng sợi kẽm gai buộc hững hờ lỏng lẻo. Lúc đầu thì chẳng có chuyện chi,
thông cứ hồn nhiên, cứ vô tư mà lớn. Nhưng thông càng lớn , vòng kẽm gai
càng trở nên chặt khít, nó cứ thít mãi vào, rồi lặn hẳn vào mình thông.
Thông càng cao, sợi kẽm gai cũng được nâng cao theo, và cái khoảng trống
dưới chân rào càng rộng thoáng cho kẻ trộm thoải mái vô ra.
Trời xanh, gió
lộng, gió dục thông reo. Gió càng lộng, thông càng reo thì sợi dây kẽm
gai nằm lẫn trong da thịt- tâm can, càng giằng xé, càng gây những cơn
buốt nhói, buốt nhói khôn cùng. Ôi, liệu trên đời này có cái vẻ ngoài
nào cao đẹp hiên ngang cho bằng cây thông đang reo đó, mà bên trong phải
nén chịu một nỗi đau khủng khiếp đến thế, tái tê đến thế ?
Ngọn gió lao xao
Kẽm rung, buốt vào tới tủy
Du
khách vô tình
Cứ
nghĩ
Thông reo.
Thơ Việt nam
xưa nay đã nói nhiều về thông. Nhưng cái thảm cảnh vô tiền khoáng hậu
nêu trên của thông thì bây giờ tôi mới gặp. Cảnh Prométhée bị xiềng
trong thần thoại xa xưa bên trời Tây xem ra chẳng thấm gì. Thông ở đất
nước tôi, thời tôi, bị hành hạ tinh vi hơn nhiều.
Đấy là cây thông
trong thơ Hà Sỹ Phu.
Vâng, Hà Sỹ Phu.
Con người thơ kín tiếng hồi đó, từ 1988 đã được bạn đọc trong và ngoài
nước biết đến ngày càng rộng rãi, trước hết qua những bài triết luận,
chính luận “ Dắt tay nhau đi dưới tấm biển chỉ đường của Trí
tuệ” (1988), “Suy
nghĩ của một công dân” (1990), “Chia
tay Ý thức hệ”
(1995). Hồ hởi hưởng ứng chủ trương đổi mới tư duy, Hà Sỹ Phu thẳng thắn
chĩa bút vào hòn đá tảng của những tư duy cũ kỹ đè nặng đầu óc hàng tỷ
con người trên 1/8 địa cầu. Bút chọi đá, đá sủi bọt, bút nhọn hoắt.
Là nhà Sinh học,
Hà Sỹ Phu là con người của khoa học, đã đành. Nhưng trước khi là nhà
triết luận, chính luận, Hà Sỹ Phu đã là con người của văn chương, của
thơ, nhạc. Tôi từng có may mắn được nghe ông tự đệm ghi-ta và hát cho
nghe bằng giọng rất truyền cảm một ca khúc ông phổ thơ của chính ông :
Ôi mùa Thu cũ cứ thơ ngây
Cứ thắm như tà áo vẫn bay
Cứ ngát hương cau, mềm bóng liễu
Nhưng không trở lại thế gian này.
(Mùa Thu không trở lại- 1983)
Ai mà chẳng luyến
tiếc cái quá vãng rất đẹp như cái mùa Thu cũ thơ ngây ấy. Nhưng nỗi
luyến tiếc ở Hà Sỹ Phu nó da diết lắm, bởi ông phải sống cái hiện tại
quá đỗi ngao ngán.
Năm 1984, năm Tý,
ngồi trong căn nhà ổ chuột , ông viết bài “Gửi bác chuột” chủ
nhà :
Bác là Chuột, tôi là Người
Người, Chuột xưa nay vốn cách vời
Thời thế đẩy tôi chui ổ bác
Ta đành thương lượng với nhau thôi.
Những câu thơ tả
thực ngồn ngộn chi tiết, dồn nén một giọng cười cay đắng, pha lẫn tiếng
rên xiết não lòng
của người nghệ sĩ trí
thức:
Nào ta thương lượng với nhau thôi
Sát nóc trên cao bác chiếm
rồi
Còn chỗ dưới sàn, xin với
bác
Bảo đàn con cháu bác
thương tôi.
Đàn con cháu bác chẳng
thương tôi
Có chiếc ghi-ta chúng gặm
rồi
Gạo sỏi chúng còn pha cứt
chuột
Sách quý gia truyền cắn tả
tơi
Cơm áo ừ thì trót tả tơi
Dây điện làm sao bác cắn
hoài?
Vẫn biết bác không cần ánh
sáng
Tôi viết làm sao lúc tối
trời?
Cuộc thương
lượng- đúng hơn là cuộc xin xỏ, bất thành. Điều xin xỏ cuối cùng,
rất đơn giản, rất đương nhiên, chỉ là xin bác Tý, chủ nhà, đứng tên cho
cái ổ chung này, cho đúng với thực trạng, cũng bị từ chối. Quái nhỉ? Chỉ
xin có mỗi tí ti thế mà cái nhà bác Tý ấy cũng không cho? Tại bác ta
ngu? Không đâu. Dân gian chỉ nói “ngu như chó”, “ngu như lợn”,
chưa ai nói “ngu như chuột” bao giờ! Ngược lại cơ. Bác Tý đáp lại
sự xin xỏ của chàng nghệ sĩ trí thức bằng một cái “nhe răng”.
Chỉ lẳng lặng nhe răng thôi, chứ chẳng thèm buông một tiếng “chít
chít” gọi là.
Cái ổ chung này bác ngự
trên
Phận tôi dưới bác đã
dần quen
Thôi bác đứng tên cho phải nhẽ
Thấy bác nhe răng, biết
bác...phiền!
Con mắt tinh đời,
con tim nhạy cảm của Hà Sỹ Phu, chỉ qua một cái “nhe răng”
thoáng lóe lên như tia chớp kia đã nhìn thấu tim đen bác Tý : té ra là
bác tối kỵ cái “thói” cứ phải gọi sự vật bằng đúng tên của nó, cái
“thói” mà đám trí thức muôn đời cứ đòi hỏi và đam mê. Ừ, tao là chuột,
tao làm chủ nhà này thật đấy, nhưng không được gọi đây là “nhà ổ
chuột” ! Mày bị khốn khổ, mày bị giày vò nhưng chủ hộ thì mày cứ
phải đứng tên ! Và thế là cuộc “xin xỏ” kết thúc.
Hỡi ôi, cả một xã hội đã xuống cấp, nhem
nhếch như cái nhà ổ chuột kia, trong đó văn hóa, văn chương, nghệ thuật
bị gặm nhấm, bị cắn xé loạn xị mà không được gọi đúng tên, mà cứ phải
dán cái tên hoa mỹ?
Với năm khổ thơ vừa ngậm ngùi vừa trào
lộng, Hà Sỹ Phu đã lật tẩy trước toàn nhân loại một thứ “văn hóa” rất
đặc chủng đã từng tràn ngập trên 1/8 địa cầu, cái “văn hóa” vỏ một đằng
ruột một nẻo, thứ văn hóa mà mà các chế độ Liên xô và Đông Âu đã dùng để
tự vệ nhưng thực ra là tự diệt, để phút chốc rơi vào bãi thải của lịch
sử, không thể cứu vãn.
Trào phúng, trữ tình và nhào quyện cả hai,
đó là thơ Hà Sỹ Phu. Trữ tình thấm thía trong nỗi luyến tiếc một mùa
thu tuyệt vời không bao giờ trở lại. Trào phúng đến cay độc trước những
thói đời đểu cáng ti tiện, trước lũ “đĩ điếm” nhà nghề :
Nghề tui đánh đĩ bằng môi
Cốt dân sướng lỗ...tai thôi, cần
gì
Giữa tường treo ảnh A- Quy
Nghề ni phải lấy ông ni
làm thày
Em ơi chị dạy câu này:
Đĩ Tàu mao ít, đĩ Tây
mao nhiều!
Hãy xem ông vịnh con cua :
Cậu chỉ bò mà được tiếng
ngang
Có gạch thì sao cứ ở
hang
Đã sang sắc đỏ là đi đứt
Màu mỡ khoe chi cái
nước...hàng?
Rõ mồn một là con
cua nhé.Cơ mà ngẫm kỹ thì cũng chả hẳn chỉ là con cua đâu.Cũng chả phải
là chơi chữ chơi màu bông phèng. Mỗi chữ mỗi màu của ông đều chất chứa
nông nỗi thế sự. Chữ đối chữ. Nghĩa đối nghĩa.
Tầng nghĩa trên. Tầng nghĩa dưới. Tầng dưới nữa. Ông đưa người đọc cảm
khoái từ cung bậc này đến cung bậc khác, mỗi bậc mỗi cao. Cái ông Sỹ Phu
này chữ nghĩa
quắc quáy thật. Và tự
ông cũng đã thốt lên kinh ngạc khi dấn sâu vào sự kỳ lạ của tiếng Việt,
trong sự tương ứng rất kỳ lạ với những nghịch lý quái đản của cuộc đời :
Ke SĨ
không thấy DIỆN
Dân BẦN
nên rất TIEN
Co CÔNG
thì rất NÔNG
Biết TUNG
không biết KIỆN !
Càng LỎI lại
càng LEN
Chưa CHÍNH
đã đòi CHUYÊN
Tưởng có TIỀN
là TIẾN
Nghĩ TO
mình là TIÊN
NGUY BIẾN thì
NGUY BIỆN !
Lớp lớp chữ và
nghĩa. Các cặp từ quen thuộc được chẻ đôi ra, lộ ra thêm nhiều nghĩa
mới! Cứ đối nhau chan chát. Đọc thấy sướng. Tôi đã nhiều lần vỗ đùi đôm
đốp một mình khi vào thăm vườn câu đối của Hà Sỹ Phu.
NGỘ CÓ NGỘ KHÔNG, NGỘ KHÔNG NGỘ,
NGỘ
KHÔNG LÀ KHỈ !
Chỉ với 3 chữ NGỘ, CÓ, KHÔNG, nhấn đi đảo
lại luyến láy đến là thần tình, rồi kết bằng chữ KHỈ. Mới đọc tưởng chỉ
có chuyện Khỉ, chuyện Ngộ Không thời xưa bên Tàu. Đọc lại, thấy hiện ra
chuyện Người, Người Việt Đại Cồ thế kỷ 20-21, hiện ra tính kịch hề, nhố
nhăng, bát nháo, chân giả lộn phèo.
Cái vế xuất đối
ảo diệu này có nhiều tầng nghĩa. Tôi chỉ xin tạm bày tỏ cách hiểu của
mình về một tầng nghĩa thôi. Hạt nhân của vế xuất đối là chữ NGỘ. Ngộ có
4 nghĩa : 1/ngộ=ta (tao,tớ,mỗ) 2/ ngộ=giác ngộ 3/ngộ=điên điên dại dại
4/ngộ=hoặc (hoặc thế này hoặc thế kia, ngộ nhỡ).
Ngộ có= tao có. Có gì? Có thể có nhiều thứ lắm,
nhưng vốn máu thực dụng, tôi phải nghĩ ngay “có” ở đây là “có của”. Và
tôi thấy hiện ra một anh chàng khật khưỡng, nói như thanh minh, như dọa
dẫm thiên hạ :
- Tao có của đấy (hữu sản) , mà tao cũng đếch có
đâu
(vô sản) , tao chẳng
khùng chẳng dại đâu, tao cũng chẳng phải là khỉ đâu!
Đây đích thị là
giọng điệu của nhân vật trung tâm trong cái “dòng văn hóa” nói một đằng
làm một nẻo, vỏ đỏ tim đen rồi. Càng ra sức thanh minh rằng mình không
phải là khỉ thì càng bộc lộ rõ cái trò khỉ , trò xiếc, có có không
không, tay này không tay này có, rồi lại tay này có tay này không, vô vô
hữu hữu ...
Khi đặc san Văn nghệ số Xuân con Khỉ 1992
đăng vế xuất đối này, và một tờ báo Paris cũng đăng , thì liền được
hưởng ứng rất tấp nập, nhiều vế đối xuất hiện.
Xin dẫn vài vế :
- BỒ NHÌN BỒ TÁT, BỒ TÁT BỒ,
BỒ TÁT CŨNG YÊU !
- LA HẦU LA HÁN , LA HÁN LA :
LA HÁN PHẢI LỪA !
- ĐỒ CHƠI ĐỒ HỌA , ĐỒ HỌA ĐỒ,
ĐỒ HỌA LÁ NHO !
Thật đồng thanh
tương ứng, đồng khí tương cầu. Các
bạn đối của HSP dù ở
phương trời nào cũng bắt đúng ngay cái làn sóng thâm ý ông phát ra.
Những con chữ sắc bén luyến láy tài tình của họ cùng ông tiếp tục lật
tẩy cái “thói hư tật xấu” giả văn hóa, giả khoa học, giả đạo đức, hư
thực nhập nhằng.
Xuân Nhâm Tuất 1982, HSP bắt đầu trình làng
đôi câu đối :
- Này thì có Đối cho ra Tết !
- Đấy rồi không Pháo cũng vào Xuân
!
Đón Xuân mà sao nghe
cái giọng cứ bực bõ thế nào ấy !
Đúng là bực, bực bởi
nghèo. Ngày thường, nghèo đã
khổ. Tết nghèo càng khổ
gấp bội. Đến bánh pháo cũng chẳng có, chỉ còn mỗi nước làm câu đối cho
nó ra cái Tết. Nhưng tôi đồ rằng dưới cái vẻ bực dọc bề ngoài vì nghèo
kia ẩn chứa chính nỗi bực dọc của văn chương chữ nghĩa. Bực vì cái cảnh
câu đối nhan nhản trên báo Tết
nhưng câu nào cũng
nhạt thếch, một trăm câu cũng không ra khỏi cái công thức “mừng đảng
mừng xuân”, sáo mòn cả nội dung lẫn hình thức. Cho nên ông bật ra một
lời “khai chiến”, thách đố với văn chương : Này thì có đối cho ra Tết
! (chứ như câu đối của các người thì sao mà “ra Tết” được? ).
Chẳng biết ông có nghĩ như thế thật không, chỉ biết rằng từ cái mùa xuân
Nhâm Tuất ấy trở đi, Tết nào ông cũng có câu đối tiễn năm cũ đón năm
mới, có năm đến hai ba đôi, rồi xuất đối để mời, để thách...Ông làm câu
đối không cốt để được đăng, chỉ cốt để thỏa cái nhu cầu tự thân và trang
trải với bạn bè.
Chẳng hạn Tết 1983, năm CHÓ sang năm LỢN :
- CHO đói đã đi RỒI,
sang gọi láng
GIỀNG vui một ME !
- LƠN no đang béo MƠ,
cũng như ai DĂM
chữ học HÀNH !
(Người miền Bắc thường phát âm chữ rồi=dồi, chữ
răm=
dăm).
Nói chuyện CHÓ mà
có DỒI, có GIỀNG, có MẺ, nói chuyện LỢN mà có MỠ với RĂM HÀNH thì thú
biết mấy. Thế nhưng lại có cả chuyện no đói, học hành. Thời ấy ai đói,
ai no? Gần như toàn dân đói, chỉ mấy vị phiếu A phiếu B mới được no, no
đến phị mỡ. Ông viết thế, có gửi cho báo, giả dụ may gặp được tay biên
tập viên nào khoái lối chơi chữ của ông mà trình lên tổng biên tập, thì
chắc anh ta sẽ bị hạch :
“ Lập trường đồng chí thế nào, nhận thức đồng chí thế nào mà lại đưa
duyệt loại văn phản động thế này? Đứa nào làm câu đối này là nó ám chỉ
lãnh đạo ngu như lợn, có học hành mấy cũng chỉ được dăm chữ, đồng chí có
hiểu không? Phải xem lại địa chỉ nó rồi báo cho bên An ninh văn hóa truy
lý lịch nó, không chừng lại mò ra ổ sản xuất chuyện tiếu lâm chống chế
độ!”.
Mãi đến sau khi Tổng bí thư Nguyễn văn
Linh hô “cởi trói” , Hà Sĩ Phu mới có thơ văn câu đối đăng báo.
Tạp chí Langbian số 2-1998 đăng :
- Lắm việc phải LÀM NGAY, MÈO sắp đi
rồi,
thôi bỏ thói LÀM NHƯ
MÈO MỬA !
- Bao điều cần NÓI THẬT , RỒNG đang tới
đó,
nhưng tránh trò NÓI
TỰA RỒNG LEO !
Tạp chí Đất Quảng xuân Canh Ngọ 1990 đăng:
- Cửa công khai, khai rộng thế kia, bọn
phủ định
lấy chi mà
phủ ?
- Nền dân chủ , chủ đầy ra đấy , lũ mưu
đồ
thôi hết đường
mưu !
Tuổi trẻ Chủ nhật xuân Tân Mùi 1991 :
- Hết khoe MÃ một thời, NGỌ ngoạy
lắm
cũng ra
vành móng NGỰA !
- Còn xuất DƯƠNG mấy độ, MÙI mẽ
chi
mà vểnh sợi râu DÊ ?
Báo Phụ nữ thành phố Hồ chí Minh Tết Quý Dậu 1993
:
- THÂN tàn chưa hết trò con KHỈ !
- DẬU nát còn che đám cỏ GÀ !
... ...
...
Có một thời tưởng
như Câu đối Việt nam đã chết, tôi muốn nói loại câu đối được viết từ cõi
lòng chân thật của người cầm bút. Nhưng không, câu đối Việt nam không
chết. Cùng với hàng loạt những chuyện tiếu lâm dân gian đời mới cực kỳ
sinh động và thâm thúy mà người dân bị áp bức bóc lột dùng để bày tỏ
thái độ của mình trước thời cuộc, là rất nhiều câu đối của các tác giả
văn chương bác học, tuy
không được đăng nhưng người ta vẫn thích thú truyền khẩu cho nhau. Ví dụ
cái vế xuất đối sau đây:
Bác bôi tôi không
bằng tôi bôi bác !
của nhà thơ Tú Sót tung ra thì nhà thơ Hữu Loan
liền ứng đối : Mày ăn dân hết nước dân ăn mày!
và Hà Sỹ Phu đối tiếp :
Nhà vô địch cứ
sợ địch vô nhà !
Tiếp nhận nguồn sữa từ câu đối truyền thống
của các nhà nho Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Cao Bá Quát..., từ kho tàng
Folklore hiện đại, hấp thụ cả tư duy khoa học khúc triết và sắc bén nữa,
câu đối của Hà Sỹ Phu có một sức phê phán đặc biệt mạnh và sâu, dồn nén
trong một nghệ thuật ngôn từ điêu luyện. Và tôi tin rằng một vị trí xứng
đáng trong văn chương Việt nam, trong câu đối Việt nam đã dành sẵn chỗ,
dù những tác phẩm ấy chưa được in đầy đủ.
*
Tháng 9 năm 1990,
báo Văn nghệ đăng một bài của Hà Sỹ Phu. Không phải thơ hay câu đối. Mà
văn xuôi, dài cả trang báo.Một bài phân tích bình luận văn chương, nhan
đề “Thằng Bờm”.
Bạn hữu khá ngạc nhiên và mừng cho ông.
Những tưởng sau khi bài “Dắt tay nhau , đi dưới tấm biển chỉ đường
của Trí tuệ” của ông chẳng báo nào chịu đăng nhưng bị báo Nhân dân,
Quân đội nhân dân... cả mấy kỳliền trích dẫn nhiều câu để đánh đòn thì
bài viết của ông khó có thể được lên mặt báo. Mọi người hy vọng báo Văn
nghệ phát một tín hiệu cởi mở.
Luận về bài ca dao “Thằng Bờm” thì đã có
khá nhiều ý kiến, có cả phim nữa. Bờm khôn? Bờm dại? Bờm là ai? Cái cười
của Bờm chứa đựng thông điệp gì? Cái cười ngu đần hay minh triết? Ý kiến
khác nhau, không ngã ngũ rành mạch.
Hà Sỹ Phu đem đến một cách tiếp cận mới,
một khám phá, độc đáo và thuyết phục: toàn bài ca dao là một phép thử.
...”Bờm ở đây tuy là
một con người thực, nhưng trong chuỗi phép thử của phú ông Bờm đóng vai
một thực thể khách quan, chỉ trả lời phép thử bằng cách gật hay lắc theo
kiểu ngôn ngữ nhị phân của máy tính...”
...” Tư duy của bài
Thằng Bờm về bản chất là tư duy triết, tư duy lôgich, tư duy toán và tư
duy thực nghiệm. Trong các khoa học thực nghiệm, chỉ những yếu tố cần
đem thử mới được thay đổi còn những yếu tố khác phải giữ hằng định. Ở
đây cũng thế, trong chuỗi phép thử của phú ông chỉ những vật đem
thử là thay đổi, còn hành động thử là "gạ đổi" thì lặp đi lặp lại như
một quy trình, một hằng số thí nghiệm...”
Từ kết quả của
phép thử, HSP phát hiện ra rằng hai cách xưng hô “Ông” và “Thằng”
(Phú ông, Thằng Bờm)
là chỉ dấu của một vấn
đề xã hội mấy nghìn năm qua và còn tồn tại chưa biết đến bao giờ : vấn
đề sở hữu, vấn đề thống trị và bị trị, lãnh đạo và bị lãnh đạo, cai quản
và bị cai quản. Hai cực thống trị và bị trị cũng tất yếu như nhiều hiện
tượng tự nhiên “ như thanh nam châm phải có cực nam và cực bắc. Ghét
cái cực bắc mà chặt nó đi thì tại chỗ chặt sẽ sinh cực bắc mới”. ...”Trong
một cộng đồng toàn Phú ông thì sẽ có Phú ông thất thế mà thành Bờm mới,
trong một cộng đồng toàn Bờm thì sẽ có Bờm khôn ngoan hơn mà thành Phú
ông mới”.
Có anh Bờm khi nắm được quyền, tự tin vào
nhiệt tâm cách mạng của mình, tưởng có thể hăm hở giải bài toán nghìn
đời về sở hữu bằng một sắc lệnh, sắc luật, chẳng ngờ vấn đề sở hữu sau
mấy chục năm công hữu hóa lại rối bời lên, kéo lùi xã hội vốn đã lạc hậu
càng sa lầy trong lạc hậu , khiến bao nhiêu Bờm cũ càng “Bờm” hơn, tạo
ra cơ man Bờm mới, tất cả được mang nhãn “chủ nhân ông”, và tạo ra rất
nhiều Phú ông mới mang nhãn “đầy tớ”. Việc gỡ rối chưa biết sẽ thế nào.
“Anh Bờm thời
nay đã được Mác bảo cho biết rằng đời anh gian nan vì cha mẹ anh chẳng
để lại cho anh cái gì sở hữu trong tay cả. Bình đẳng, dân quyền,
nhân quyền gì gì cũng ở cái gốc 'hữu ' hay 'vo ' ấy mà ra.”
Và Hà Sỹ Phu
mách cho Bờm một lối ra :
...”Giành được cái 'có
' đã khó thì giữ được cái 'co ' ấy còn khó hơn. Muốn phát huy
được cái 'co ' lại phải có cái Trí, chứ không thì lại như
anh chàng ngốc nọ, đã 'có ' ruộng, 'có ' tiền hẳn hoi
mà rồi bị mấy lão 'quân sư quạt mo ' nó 'gạ đổi ' để nhận lấy đàn
vịt trời, thì có kiện lên tận Thiên đình Trời cũng chẳng đền
cho được.”
...”Bờm chỉ có một
con đường, tiến tới phía trước để làm chủ đời mình, với cái Tâm
trong sáng, cái Trí thông minh, giành lấy sức mạnh tổng hợp của
cái 'Hữu ', cái Quyền, để trở thành Ông cho ra Ông, Ông
cho đàng hoàng với đời!”
Phần báo Văn nghệ đăng bài Thằng Bờm kết thúc
bằng bài ca dao mới “Vịnh thằng Bờm Đông Âu” như sau (*) :
Thằng Bờm có cái
...giấy khen
Phú ông gạ đổi mấy em nàng
hầu
Bờm rằng Bờm chẳng lấy hầu
Phú ông gạ đổi một xâu nhẫn
vàng
Bờm rằng Bờm chẳng lấy
vàng
Phú ông gạ đổi Thiên đàng tự
do
Bờm rằng Bờm chẳng lấy do
Phú ông gạ đổi một kho Nhân
quyền
Bờm rằng Bờm chẳng lấy
quyền
Phú ông gạ đổi Đa nguyên,
Bờm cười !
Tôi đồ rằng đây là một sáng tác của Bờm Việt nam,
để trả lời những gợi ý về con đường tiến tới mà Hà Sỹ Phu ở trên đã nêu
ra với Bờm.
----------------------------------------- BMQ
(*) Xem báo Văn nghệ tháng 9-1990
LÝ LUẬN
VĂN HỌC
BÌNH LUẬN
PHỎNG VẤN
VỤ ÁN LIÊN QUAN
TIỂU SỬ |