"Sau mấy chục năm được nhà trường xã hội chủ nghĩa trau dồi bao nhiêu tri thức về khoa học tự nhiên, về triết học Mác-Lê, về chính trị ... thì bây giờ các chi bộ lại không còn coi chúng tôi là thành phần công nông gần đảng nữa mà chuyển thành tầng lớp trí thức tiểu tư sản bấp bênh ! Trở thành kỹ sư, tiến sĩ, giáo sư ... thì lại xa đảng hơn lúc chưa đi học !. Nghĩa là trên thực tế thì chất Đảng ngược chiều với chất trí thức ! Đó là điều nghịch lý".....Dắt Tay Nhau, Đi Dưới Tấm Biển Chỉ Đường của Trí Tuệ - Hà Sĩ Phu 1988
"Khẳng định vai trò quyết định của tự do và phát triển không có nghĩa là khi có hai điều kiện ấy thì tự khắc sẽ có Bình đẳng và Bác ái mà không cần đến hoạt động khuyến thiện và nỗ lực tranh đấu của con người. Không thể lấy khát vọng thay cho qui luật, nhưng khát vọng đúng sẽ xúc tiến nhanh qui luật...." Đôi Điều Suy Nghĩ của Một Công Dân - Hà Sĩ Phu 1993
"Mọi hoạt động Tranh đấu của con người từ cổ chí kim , không có gì ra ngoài ý nghĩa của chữ QUYỀN CON NGƯỜI. "Quyền Con người" ngày nay đã trở thành vấn đề toàn cầu không nước nào có thể lẩn tránh, điều ấy đánh dấu một bước trưởng thành khổng lồ của văn minh nhân loại. Ở đâu có áp bức bất công, ở đâu con người bị đối xử phi lý đều có thể tìm nơi "Quyền Con Người" một điểm tựa để tranh đấu, ít nhất cũng là điểm tựa tinh thần. Mặt khác. từ ánh sáng chung nhất về "Quyền Con Người", con người có thể nhìn lại những trào lưu Tranh đấu của mình một cách có cơ sở khách quan, khoa học và sáng suốt hơn..." Chia Tay Ý Thức Hệ - Hà Sĩ Phu 1995
|
|
Nhóm ĐàLạt - Bùi Minh Quốc
Chống nội xâm, cứu nước!
Bùi Minh Quốc
(Thư ngỏ kính gửi các anh Nông Đức Mạnh, Nguyễn Đức Bình, Lê
Hồng Hà, Hà Sĩ Phu, Phan Đình Diệu, Lê Đăng Doanh, Lữ Phương, Mai Thái
Lĩnh, nhờ báo Nhân Dân và các báo đài trong ngoài nước công bố
giúp)
Thưa các anh,
Ngày 10 tháng 3 năm nay, 2007, anh Lê Hồng Hà, nguyên Chánh văn phòng Bộ
Công an, từ Hà Nội gọi điện vào Đà Lạt nói chuyện với tôi và anh Hà Sĩ
Phu. Anh Lê Hồng Hà mong muốn tiến hành một cuộc thảo luận công khai
giữa chúng tôi, cùng nhau phân tích nhận định tình hình nước ta từ năm
1975 tới nay, cùng nhau góp phần xây dựng một nền móng lý luận và tư
tưởng về phát triển và dân chủ hoá của Việt Nam. Hôm ấy, qua điện thoại
khoảng 30 phút, anh Lê Hồng Hà đã phát biểu phần ý kiến của mình.
Ít ngày sau, trên ti-vi, tôi thấy và nghe anh Nông Đức Mạnh, Tổng Bí
thư, phát biểu tại Hội đồng Lý luận Trung ương nhấn mạnh rằng
cần tôn trọng các ý
kiến khác biệt.
Kể ra điều này không có gì mới, vì chủ trương tôn trọng các ý kiến,
chính kiến khác biệt, đã được công khai khẳng định nhiều lần ở cấp cao
nhất, nhưng lần này được nhắc lại, hẳn không phải chỉ để nói mà để làm.
Tôi rất mong những người lãnh đạo ở cấp cao nhất sớm tự vượt mình ra
khỏi cái căn bệnh kinh niên nói một đằng làm một nẻo, trước hết trong
việc tôn trọng những ý kiến khác biệt, cần thể hiện sự tôn trọng ấy ngay
hôm nay, chậm nhất ngay ngày mai: hãy dành ngay một trang mục thường
xuyên trên báo Nhân Dân, đài Tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình Việt
Nam công bố những ý kiến khác biệt về các vấn đề quốc sự được nghiền
ngẫm bấy lâu từ những trí tuệ hàng đầu của đất nước cả trong lẫn ngoài
Đảng.
Mấy tháng qua, tôi đã đọc đi đọc lại những ý kiến gần đây luận bàn đầy
tâm huyết và trách nhiệm của các anh Lê Hồng Hà, Hà Sĩ Phu, Lữ Phương,
Phan Đình Diệu, Lê Đăng Doanh, Mai Thái Lĩnh, tuy không được đăng tải
trên báo đài chính thức của Đảng và Nhà nước nhưng được công bố trên
mạng internet và được photo truyền nhau khá rộng rãi trong các lão thành
cách mạng, các cựu chiến binh, các nhà giáo và cả các sinh viên.
Tạm lược kê:
-
Của anh Lê Hồng Hà:
bài vừa dẫn trên đây và một số bài trước kia về nhu cầu xây dựng một
nền lý luận về phát triển và dân chủ hoá của Việt Nam, về con đường
xã hội dân chủ
-
Của anh Hà Sĩ Phu:
bài “Tư tưởng và dân trí là nền móng xã hội”
-
Của anh Phan Đình
Diệu: bài “Một số suy nghĩ về con đường tiếp tục đổi mới của đất
nước ta”
[1]
-
Của anh Lê Đăng
Doanh: bài Thuyết trình trước Bộ Chính trị ngày 2-11-2004
[2]
-
Của anh Mai Thái
Lĩnh: bài “Dân chủ-xã hội là gì?” và “Tìm hiểu quan niệm chính trị
của Phan Châu Trinh”
-
Của anh Lữ Phương:
bài “Về vấn đề dân chủ hoá ở Việt Nam”
[3]
và bài “Nói thêm về tiến trình chuyển hoá dân chủ”
[4]
Điều rất đặc biệt là từ những suy nghĩ riêng nhưng ý kiến
chung của các anh đều hướng đến
con đường
xã hội dân
chủ
như một lối ra phù hợp hơn cả, có tính khả thi hơn cả cho Việt Nam.
Qua bức tâm thư gửi các đại biểu Đại hội lần thứ 10 của Đảng, tôi đã bày
tỏ sự tán thành của mình đối với ý hướng đó của các anh.
Gần đây tôi được đọc bài
“Tiếp tục một cách
kiên định và sáng tạo con đường xã hội chủ nghĩa”
của anh Nguyễn Đức Bình đăng hai kỳ trên báo
Nhân Dân.
Xin có mấy nhận xét sơ bộ như sau:
Những cái mà anh Nguyễn Đức Bình
kiên định
thì rất lạc hậu, đã bị thực tiễn lạnh lùng vượt qua một cách hiển nhiên,
đáng kể nhất là sự kiên định một quan điểm căn cốt cố hữu được khẳng
định lại tại Đại hội Đảng lần thứ 7 năm 1991; đó là định nghĩa về thời
đại (quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn
thế giới), còn những cái mà anh gọi là
sáng tạo
thì khó ai thấy được có gì là sáng tạo. Xin dẫn chứng:
“Có thể
hình dung thế nào mô hình về sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta?
Cương lĩnh năm 1991 của Ðảng đã vạch rõ những điểm căn cốt nhất trong
bức tranh tổng thể, rồi đây sẽ được nghiên cứu bổ sung, phát triển, làm
phong phú thêm. Tôi nghĩ những ý sau đây nên làm đậm nét hơn trong Cương
lĩnh: đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh công - nông - trí
dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân và Ðảng Cộng sản Việt Nam; dân
chủ hoá đời sống trong Ðảng và trong xã hội đi đôi với kỷ cương, phép
nước chặt chẽ, với chuyên chính đối với những kẻ thù chống lại lợi ích
Tổ quốc và nhân dân; tăng trưởng kinh tế gắn chặt với công bằng xã hội
và chính sách xã hội; phát triển rất mạnh giáo dục, văn hoá, khoa học,
xây dựng con người mới, đào tạo nhân tài, tạo dựng cho được nền tảng
tinh thần xã hội cao đẹp; kiên quyết lành mạnh hoá đạo đức xã hội và lối
sống con người…, bài trừ cho được các tệ nạn xã hội, sự tha hoá xuống
cấp trước hết trong cán bộ, đảng viên, công chức.”
Cái cần kiên định trước tiên là chủ trương làm nức lòng người từ đại hội
Đảng lần thứ 6: NHÌN THẲNG VÀO SỰ THẬT, NÓI RÕ SỰ THẬT, thì anh Nguyễn
Đức Bình không được kiên định cho lắm nên bài viết thiếu tính thuyết
phục, không hề đáp ứng được khát khao
“nhìn thẳng vào sự
thật” của
người đọc.
Xin mạn phép thưa lại với anh Nguyễn Đức Bình: tôi đố anh chứng minh
được một cách khoa học cho chúng tôi thấy cái giai cấp công nhân Việt
Nam trong đoạn văn trên của anh (cùng là trong các văn kiện Đảng) chính
là cái giai cấp công nhân đại công nghiệp đủ tố chất để gánh vác sứ mệnh
lãnh đạo xã hội trong văn bản của Mác, hay nó chỉ là sản phẩm hoang
tưởng được vẽ vời trên mặt giấy trong các văn kiện và trong các công
trình tiêu phí tiền dân hàng trăm tỷ đồng của các nhà
“lý luận nói lấy
được” (chữ dùng của cố trung tướng Trần Độ), chứ nó chưa hề tồn
tại trong hiện thực? Theo nhận xét của riêng tôi, bằng cặp mắt thường
của một chiến sĩ cả đời làm thơ (nay đã 67 tuổi) nhìn từ quán cóc vỉa hè
thì giai cấp công nhân Việt Nam trong thời gian qua (và còn tiếp tục
trong thời gian tới nữa) chỉ là đối tượng để lợi dụng mồ hôi xương máu
và danh nghĩa bởi một thực thể chính trị đậm chất nông dân mang tên là
Đảng Cộng sản Việt Nam mà một bộ phận quan trọng trong giới cầm quyền đã
trở thành tư bản (hoang dã), chứ giai cấp công nhân đang tồn tại bằng
xương bằng thịt trên khắp đất nước này chẳng có vai trò/ liên đới gì
trong cái gọi là “sự lãnh đạo/ cầm quyền” ấy cả.
Nói đến giai cấp công nhân Việt Nam và Đảng Cộng sản Việt Nam thì không
thể không nói đến điều 4 Hiếp pháp mà tôi đã đề nghị cần phải bỏ (trong
một thư ngỏ viết tháng 10.1993 gửi Quốc hội).
Vì sao tôi lại đề nghị bỏ điều 4?
Xin thưa vì những lý do sau đây:
-
Khi chưa có điều 4,
dân rất tin Đảng, lòng tin ấy một phần là tin vào mục tiêu độc lập,
tự do, dân chủ mà Đảng nêu cao, phần chính là tin qua tấm gương dũng
cảm, tận tuỵ, hy sinh, liêm khiết của đông đảo những con người đảng
viên cụ thể mà người dân chứng kiến hàng ngày giữa thiếu thốn, đói
no, tù đày, sống chết. Nhưng rồi Đảng trở thành Đảng cầm quyền, từ
khi có điều 4, lòng tin của dân đối với Đảng kém sút hẳn, Đảng trở
nên hư hỏng, đường lối thì sai lầm, đưa đất nước đến bên bờ vực (Đại
hội 4), cán bộ thì thoái hoá, sa đoạ với tốc độ, qui mô ngày càng
khủng khiếp và chiều hướng ngày càng khó ngăn chặn.
-
Phải chăng vì Đảng
mất chỗ đứng trong lòng dân, nên mới phải bám vào điều 4 để ngồi
trên đầu dân và bước đi chệnh choạng trên đôi chân cà khoeo - một
bên súng, còng (quân đội, công an), một bên loa (hệ thống thông tin
đại chúng độc quyền)?
Như vậy, rõ ràng điều 4 chỉ cần thiết cho một bộ phận đã tha
hoá, cố thủ sau bình phong Đảng lãnh đạo để giữ đặc quyền đặc lợi, chứ
hoàn toàn không cần thiết cho Đảng mà lại làm hại Đảng.
Điều 4 ghi rằng
Đảng là đội tiền
phong của giai cấp công nhân, theo chủ nghĩa Mác Lê-nin, Đảng lãnh đạo
nhà nước và xã hội…,
toàn bộ nội dung này bất ổn cả về lý luận lẫn thực tiễn.
Hãy dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật:
- Đảng không phải là đội tiền phong của giai cấp công nhân, ngay cả
những công nhân hầm mỏ Quảng Ninh vừa cởi chiếc áo nâu lấm bùn để khoác
vào chiếc áo xanh thợ, chứ chưa nói là giai cấp công nhân đại công
nghiệp như Mác xác định. Những sai lầm chết người như cải cách ruộng
đất, chỉnh đốn tổ chức, đường lối phiêu lưu duy ý chí của Đại hội 4 đưa
đất nước đến bờ vực thẳm chẳng phải là biểu hiện tày đình của một thứ
chủ
nghĩa
nông dân mo cơm quả
cà tệ
hại nhất đó sao? Còn nhớ, năm 1978 Đảng có nghị quyết chống tập đoàn cầm
quyền bành trướng Bắc Kinh, trong đó đã đặt vấn đề phê phán tư tưởng
nông dân. Sau cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc, Tổng Cục chính
trị Quân đội Nhân dân triển khai cuộc học tập lý luận chống chủ nghĩa
Mao, phân tích phê phán tư tưởng nông dân - cơ sở xã hội của chủ nghĩa
Mao - dịp ấy, nhà văn Nguyễn Minh Châu có một ý phân tích ngắn gọn mà
cực kỳ sắc sảo: anh nông dân nào cũng thích làm vua,
cốt lõi tư tưởng
nông dân là thích làm
vua.
Nhưng thật lạ, cuộc học tập phê phán đang tiến hành sôi nổi
hào hứng thì bị ngừng lại đột ngột theo lệnh trên. Mọi người bảo nhau:
các ông trên các ông ấy sợ, bắt ngừng lại là phải thôi, bởi vì mới phân
tích sơ sơ đã thấy lòi ra đặc sệt cái chất nông dân của Đảng mình.
- Đảng tuyên bố theo chủ nghĩa Mác Lê-nin, nhưng trong Đảng may lắm cũng
chưa chắc có được 1% đảng viên nắm vững chủ nghĩa ấy, còn trong cán bộ
từ Bí thư Tỉnh uỷ trở lên thì liệu có được 0,001%? Tiện thể xin hỏi: anh
Nông Đức Mạnh có dám tự khẳng định trước các nhà lý luận rằng anh nắm
vững chủ nghĩa Mác Lê-nin? Tuyên bố theo một chủ nghĩa (với giả định là
chủ nghĩa ấy đúng hoàn toàn) mà chỉ có được chừng đó người nắm vững chủ
nghĩa thì chẳng ai tin, người đời bảo thế là “treo đầu dê bán thịt chó”.
Một thực tế sừng sững như dãy Trường Sơn cho thấy chủ nghĩa Mác Lê-nin
đã phá sản ngay tại nơi mà nó ra đời, một bộ phận trong giới lãnh đạo
mấy Đảng cầm quyền ở Trung Quốc, Việt Nam, Cuba, Bắc Triều Tiên, Lào sở
dĩ còn cố níu giữ không phải vì giá trị khoa học mà vì muốn sử dụng chủ
nghĩa như một công cụ cai trị tiện lợi nhất: có chủ nghĩa Mác Lê-nin thì
mới có độc quyền cai trị của Đảng Cộng sản (thực chất là độc quyền của
thiểu số đặc quyền đặc lợi trong Đảng), có vai trò chủ đạo của kinh tế
quốc doanh, có sở hữu toàn dân về đất đai - những miếng mồi béo bở nhất
cho tham nhũng, có chuyên chính vô sản mà nòng cốt là công an, quân đội
và hệ thống truyền thông đại chúng độc quyền (trong các văn kiện chính
thức không dùng cụm từ “chuyên chính vô sản” nữa, nhưng bản chất hệ
thống chính trị vẫn y như cũ) để dễ bề
“dùng chuyên chính
vô sản để tích luỹ tư bản” (phát hiện năm 1988 của Hà Sĩ Phu).
Hơn nữa, đưa chủ nghĩa Mác Lê-nin vào điều 4 là một hành vi quốc giáo
hoá chủ nghĩa ấy, là chăng lưới thép trên bầu trời tư duy của toàn dân
tộc, ngăn chặn mọi cánh chim trí tuệ Việt Nam vút lên, rồi đặt thành một
môn học bắt buộc đối với học sinh, sinh viên, công chức, người dạy không
tin vào điều mình dạy, người học cũng chẳng tin vào điều mình học; đó
rành rành là hành vi ngu dân (trước hết là ngu Đảng) đại qui mô giống
hệt các giáo quyền trung cổ. Nếu vậy thì đó là một tội lớn về tư tưởng
và văn hoá đối với đại đa số đảng viên, với dân tộc và nhân loại.
- “Đảng
lãnh đạo nhà nước và xã hội…”,
mệnh đề thứ ba của đều 4 ghi như thế. Vậy thế nào là lãnh đạo? Hai chữ
lãnh đạo đã được xác định từ lâu rất rõ ràng, giản dị như sau: lãnh đạo
là vận động, giáo dục, thuyết phục bằng tư tưởng đúng, đường lối đúng,
bằng sự gương mẫu về phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ. Vậy thì
cần gì một hệ thống biên chế từ xã đến huyện, tỉnh, trung ương đông đúc
cồng kềnh đến thế với lớp lớp trụ sở xe cộ nghênh ngang sang trọng tốn
kém đến thế mà nội dung công việc phần lớn trùng lặp chồng chéo với cơ
quan nhà nước, tất cả đều chi xài bằng tiền thuế của dân, quyền hành thì
nắm toàn diện triệt để tuyệt đối mà trách nhiệm thì hết sức chung chung,
hết sức mù mờ.
Cũng cần nhắc lại, năm 1993 khi đề nghị bỏ điều 4, tôi đã đồng thời nêu
rõ: chừng nào chưa bỏ điều 4 thì phải có ngay một bộ luật về sự lãnh đạo
của Đảng để xác định rạch ròi quyền hạn và trách nhiệm, ngăn và chống
tình trạng lạm quyền lộng quyền nhân danh sự lãnh đạo của Đảng; lãnh đạo
đúng thì được ghi nhận, lãnh đạo sai gây hại cho dân cho nước thì phải
ra toà.
Điều 4 được thông qua bằng một Quốc hội không đại diện cho dân bởi các
đại biểu đều do Đảng (thực chất là một vài cá nhân nắm giữ công việc
nhân sự của Đảng) sắp đặt, hoạt động một cách hình thức. Việc đó nói
thẳng ra thì đích thị là một xảo thuật pháp lý nhằm đưa Đảng (thực chất
chỉ là một vài người ở cấp tối cao của Đảng) lên ngôi vua. Nhiều nhà trí
thức trong và ngoài Đảng cùng nhiều lão thành cách mạng gọi chế độ chính
trị hiện hành là chế độ phong kiến trá hình hay chế độ toàn trị (đang
biến chủng thành hậu toàn trị) là đã gọi rất đúng tên sự vật.
Tóm lại, điều 4 là một bằng chứng hiển nhiên về sự đối chọi giữa danh và
thực, một xảo thuật cầm quyền hết sức thiếu dân chủ, nói thẳng ra là sự
dối trá, một sự dối trá bao trùm lên toàn bộ đời sống xã hội.
Bỏ điều 4 là Đảng trút bỏ được một gánh nặng, thoát khỏi thế kẹt để trở
về chỗ đứng vững chắc trong lòng dân, từ đó tiến hành đổi mới bản thân
Đảng bằng nguồn sức mạnh từ nhân dân.
Còn nhiều vấn đề rất căn bản trong bài của anh Nguyễn Đức Bình cần được
thảo luận đến nơi đến chốn, tôi chỉ nêu sơ bộ vấn đề giai cấp công nhân
Việt Nam và Đảng Cộng sản Việt Nam như trên.
Nhưng vấn đề hệ trọng hơn hết, vấn đề bao trùm lên mọi vấn đề là dân chủ
hoá, là đổi mới hệ thống chính trị, là chuyển hệ thống chính trị toàn
trị (đang biến chủng sang hậu toàn trị) hiện hành thành một hệ thống
chính trị dân chủ (theo tôi ban đầu hãy cứ cố được như Chủ tịch Hồ Chí
Minh lãnh đạo toàn dân thực hiện năm 1946 là mừng lắm rồi) bằng những
bước đi thích hợp nhất, những biện pháp ít gây xáo trộn nhất với vai trò
chủ động của Đảng, trong đó sự thức tỉnh về ý thức, ý chí và hành động
của từng đảng viên, từng người dân về quyền làm chủ - đảng viên làm chủ
Đảng, công dân làm chủ các hội đoàn mà họ tham gia – là sức mạnh quyết
định.
Như tôi vừa nêu trên, một số nhà trí thức trong và ngoài Đảng đã đề xuất
một lối ra cho Đảng, cũng là lối ra cho toàn dân tộc, là
con đường xã hội dân
chủ.
Bên Trung Quốc, các nhà nghiên cứu, đồng thời là cán bộ cao cấp của Đảng
Cộng sản như Tân Tử Lăng, Tạ Thao cũng đã nêu ra
con đường xã hội dân
chủ.
Thế đấy, một sự tương hợp thật lý thú, sau bao nhiêu dồi dập hỗn mang
(nhân danh Mác) diễn ra trên một vùng đất thuộc phương Đông xa xôi và bí
ẩn (đối với Mác), sau bao nhiêu khổ nạn khổ công tìm kiếm, nhiều trí
thức từ những nguồn cội khác nhau nhưng có chung cuộc đời theo Mác đã
cùng gặp nhau ở
con đường xã hội dân
chủ.
Các học giả Trung Quốc đều là những đảng viên cao cấp
“canh cánh
một lòng
cứu Đảng”,
như Tạ Thao bày tỏ.
Các trí thức
nước ta mà tôi dẫn tên trên đây cũng đều một lòng một chí tìm kiếm khoa
học và đề xuất với Đảng cầm quyền một con đường phát triển và dân chủ
hoá tối ưu cho dân tộc,
con đường xã hội dân
chủ.
Thực ra, qua nghiên cứu của anh Mai Thái Lĩnh, cuộc tìm kiếm và gặp gỡ
con đường
xã hội dân chủ
ở ta đã khởi từ cụ Phan Châu Trinh. Và Phan Châu Trinh, một nhà Nho hâm
mộ những tư tưởng tiến bộ của Âu Tây nhưng với một bản lĩnh tư duy độc
lập cực kỳ vững vàng và nhạy bén, cụ sớm lên án bệnh hủ Nho và cảnh báo
bệnh hủ Âu, ngay từ 1925 đã nhấn mạnh vấn đề tiếp thu tư tưởng xã hội
dân chủ Âu Tây phải gắn với việc phát huy những yếu tố tích cực, khắc
phục những yếu tố tiêu cực trong con người và văn hoá Nho giáo Việt Nam.
Nếu biết đánh giá đúng tầm quan trọng của phát hiện này và quảng bá rộng
rãi, sẽ càng khiến Đảng ta dân ta thêm tự tin.
Anh Nguyễn Đức Bình hẳn cũng canh cánh một lòng cứu Đảng, nhưng anh cứu
bằng cái bài thuốc bấy lâu Đảng vẫn dùng mà càng dùng càng suy yếu. Còn
với bài thuốc Tân Tử Lăng, Tạ Thao bốc cho Đảng Cộng sản Trung Quốc,
đảng ấy chưa có ý kiến gì chính thức, thì anh Bình quá lo cho giới cầm
quyền bên ấy, vội can
“chớ ảo tưởng về con
đường xã hội dân chủ”, thậm chí còn lên án vô căn cứ người ta
“xuyên tạc, bóp méo,
bôi nhọ Mác, Ăng-ghen và chủ nghĩa Mác”.
Phải chăng anh Bình đang thực hiện việc hợp tác về công tác lý luận giữa
Đảng ta với Đảng Cộng sản Trung Quốc, dùng ngòi bút của mình để ngăn trở
xu thế đổi mới tư duy ở cả hai nước? Đảng ta đang bế tắc về lý luận
(ngấm ngầm phản bội chủ trương của Đại hội 6, không dám nhìn thẳng vào
sự thật, không dám nói rõ sự thật thì sao khỏi bế tắc?), anh Bình muốn
cứu Đảng, nhưng tôi ngờ rằng anh cứu Đảng từ một lập trường lệ thuộc,
tức lập trường vong bản. Nhân đây, tôi lưu ý các anh, cũng là lưu ý toàn
Đảng toàn dân một việc như sau: trong buổi trả lời phỏng vấn của đài RFI
phát 10g đêm 15.9.2007, nhà nghiên cứu Nguyễn Q. Thắng thông báo với mọi
người rằng ông đã soạn một cuốn sách với rất nhiều bằng chứng giá trị
chứng minh chủ quyền của nước ta trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa, với sự nhất trí và giới thiệu của nguyên trưởng ban biên giới của
chính phủ là Lê Minh Nghĩa, nhưng gửi đến nhà xuất bản nhiều năm nay vẫn
không được in, trong khi đó một cuốn từ điển của Trung Quốc mới xuất
bản, ở mục về Hoàng Sa và Trường Sa họ ghi rõ chủ quyền của họ thì lại
được ngang nhiên bày bán tại hội chợ sách TP HCM. Thế là thế nào? Nếu
người dân bảo đó là lập trường vong bản, bán nước thì ta cãi sao đây?
Theo tôi, anh Nông Đức Mạnh và bộ chính trị phải có trách nhiệm đảm bảo
cho cuốn sách nói trên của nhà nghiên cứu Nguyễn Q. Thắng được xuất bản
ngay.
Trong một bài viết, anh Nguyễn Đức Bình đã yêu cầu
“phải đặt tất cả mọi
bất đồng lên bàn tranh luận công khai”.
Thật là một đề xuất
đáng khích lệ, làm nức lòng các nhà lý luận từ mọi phía, bởi được nêu ra
dưới ngòi bút của một nhà lý luận hàng đầu của Đảng ta, từng nhiều năm
giữ những cương vị quan trọng: Uỷ viên Bộ Chính trị phụ trách văn hoá tư
tưởng, Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia, Chủ tịch Hội đồng Lý luận
Trung ương. Anh Nông Đức Mạnh đã nhiều lần tuyên bố
“tôn trọng các ý
kiến khác biệt”,
đương nhiên không thể không sớm đáp ứng yêu cầu rất chính đáng ấy của
anh Nguyễn Đức Bình, cũng là của tất cả những ai làm lý luận và quan tâm
đến lý luận.
Vậy tôi mong báo
Nhân Dân sau khi đã đăng bài anh Nguyễn Đức Bình thì cần phải đăng
bức thư ngỏ này của tôi, đăng bài “Tư tưởng và dân trí là nền móng xã
hội” của anh Hà Sĩ Phu là bài liên quan trực tiếp đến bài lý luận của
anh Nguyễn Đức Bình, đồng thời mời các anh Lê Hồng Hà, Lê Đăng Doanh, Hà
Sĩ Phu, Phan Đình Diệu, Lữ Phương, Mai Thái Lĩnh viết bài tranh luận với
anh Nguyễn Đức Bình. Tôi cũng đề nghị nên mời tác giả Tạ Thao của Trung
Quốc viết bài trả lời anh Nguyễn Đức Bình. Thêm nữa, nên mời các nhà lý
luận và các nhà chính trị của các đảng xã hội dân chủ Bắc Âu, Tây Âu
viết bài cho báo
Nhân Dân
giới thiệu cả về lý luận lẫn kinh nghiệm thực tiễn xây dựng chế độ xã
hội dân chủ của họ.
Thưa các anh,
Thư tuy đã hơi dài, nhưng trước khi dừng bút tôi muốn bày tỏ thêm đôi
điều tâm sự.
Chúng ta đều đã quá cái tuổi “tri thiên mệnh” từ lâu, có anh đã quá bát
thập rồi, bàn chân đã mấp mé ngưỡng cửa hư vô rồi. Ở cái tuổi này, mỗi
lời nói, mỗi trang viết, mỗi việc làm đều là chắt lọc sự nghĩ và sự trải
của cả một đời, là biểu hiện một lẽ sống đã được xác quyết, trong thâm
tâm không thể không tự biết cuối cùng ta đã sống một cuộc đời có ý nghĩa
hay vô nghĩa, ta đã góp được gì có ích cho đời để đời thương kính hay
làm hại đời để chuốc lấy lời nguyền rủa muôn đời trút lên đầu con cháu.
Chắc chắn là anh Nguyễn Đức Bình không thể không đọc các bài viết mấy
năm gần đây của anh Hoàng Tùng - một bậc đàn anh của anh về lý luận Mác
Lê-nin, và anh Bình không thể không hiểu vì sao anh Tùng lại phải cầm
bút thổ lộ cho mọi người biết những suy nghĩ đã rất khác trước của mình
về cái chủ nghĩa mà mình gần hết cả đời tôn thờ, truyền giảng.
Đọc đi đọc lại bài của anh Nguyễn Đức Bình, tôi cứ muốn hỏi anh: này anh
Bình, xin hãy nói thật lòng, anh có tin vào những điều mình viết không?
Và anh Nông Đức Mạnh, anh có thực sự cho rằng bài viết của anh Nguyễn
Đức Bình là lý luận khoa học? Và xin hỏi anh Mạnh anh Bình, hai anh có
thật sự nghĩ rằng giai cấp công nhân Việt Nam đang lãnh đạo xã hội Việt
Nam? Hai anh trong thâm tâm có dám tự nhận mình là người
đầy tớ của nhân dân
(mấy năm gần đây không thấy nhắc lại cụm từ này trong các văn kiện và
các phát biểu, hẳn vì không còn đủ can đảm để thốt ra một danh xưng đã
trở thành hài hước)? Từ khi vào Trung ương rồi vào Bộ Chính trị, hai anh
có thực tâm coi vị trí công tác của mình là vị trí chiến đấu vì dân vì
nước, vì lẽ phải và công lý (như các anh thường xuyên lên bục rao giảng
cho cán bộ, đảng viên) hay đó chỉ là “chiến đấu” nhằm giữ ngai, giữ ghế
vua quan cách mạng? Tôi biết hai anh sẽ không chính thức trả lời tôi,
nhưng vào những đêm mất ngủ của tuổi già, các anh không thể không trả
lời cho chính lương tâm mình, lương tri mình.
Tôi tin ở sức mạnh của lương tâm, lương tri. Đó là một sức mạnh vô địch,
trường cửu. Sức mạnh ấy tồn tại và truyền nối trong hồn thiêng của tổ
tiên ta, của tất cả những người con bao đời nay đã hiến dâng mồ hôi
xương máu cho đất Mẹ Việt Nam yêu dấu ngàn năm của chúng ta. Sức mạnh ấy
sống mãi trong mỗi con người Việt Nam, trong trời đất cỏ cây sông núi
Việt Nam, sức mạnh ấy là nguồn sống nguồn sáng vĩnh hằng đang ngày đêm
rọi chiếu cõi lòng tất cả những ai đã nguyện thề làm người đầy tớ thật
trung thành của nhân dân. Sức mạnh ấy cũng đang ngày đêm rọi chiếu vào
tận ngóc ngách đen tối nhất trong cõi lòng những kẻ thẻ-đỏ-tim-đen,
những kẻ đang nắm giữ chức quyền nhưng lòng đã tha hoá mà ta vẫn lên án,
dù cho chúng có rúc kín đến đâu trong những lâu đài nghênh ngang kiên cố
giữa năm bảy lớp rào được dựng nên bằng quyền lực bất lương.
Bởi tin thế nên tôi mới có bức thư ngỏ này.
Trong đoạn văn của anh Nguyễn Đức Bình tôi dẫn bên trên có chỗ nêu rõ:
“…chuyên chính đối với những kẻ thù chống lại lợi ích Tổ quốc và nhân
dân”.
Những kẻ
thù nào vậy?
Sau khi đuổi xong giặc ngoại xâm, thì trong
“những kẻ thù chống
lại lợi ích Tổ quốc và nhân dân”,
nguy hiểm nhất là
giặc nội xâm,
Hồ Chủ tịch đã vạch rõ như thế, ngay từ khi ta mới giành được chính
quyền, điều này thì hai anh thuộc bài hơn tôi, và không mấy ngày không
lặp đi lặp lại trên báo đài.
Mọi người đều biết
giặc nội xâm
nguy hiểm hơn giặc
ngoại xâm vì
nó sinh ra từ chủ nghĩa cá nhân của những cán bộ có chức quyền. Hồ Chủ
tịch đã nhiều lần nhấn mạnh:
“chủ nghĩa cá nhân
là kẻ thù nguy hiểm nhất”.
Và là siêu
nguy hiểm
khi chủ nghĩa cá nhân nằm ngay trong một số cán bộ giữ trọng trách ở cơ
quan quyền lực tối cao, nhất là ở người nắm giữ công tác tổ chức, công
tác cán bộ. Bao nhiêu năm ròng, công tác cán bộ, nhất là việc chọn cán
bộ vào Trung ương, vào Bộ Chính trị lại thâu tóm trong tay một vài cá
nhân ở cấp tối cao. Các cuộc bỏ phiểu ở mỗi kỳ đại hội chỉ là hình thức
để hợp thức hoá sự sắp đặt rất cá nhân chủ nghĩa, rất bè phái của mấy
người ấy. Thế là đẻ ra một tình trạng bè phái tham nhũng quyền lực có hệ
thống, một
Đảng Đen
đã xuất hiện và lộng hành trong lòng
Đảng Đỏ. Cái Đảng Đen này chỉ gồm một số ít những phần tử thẻ-đỏ-tim-đen lợi
dụng tình trạng mất dân chủ và sinh hoạt khép kín trong Đảng để cố kết
với nhau nắm giữ nhiều vị trí quyền lực trọng yếu, thao túng công tác
nhân sự của Đảng. Vị trí công tác, chức vụ, cấp bậc của mỗi cán bộ không
còn tuỳ thuộc vào năng lực phẩm chất của họ với sự tín nhiệm đích thực
của nhân dân mà tuỳ thuộc vào sự sắp đặt bí mật từ bên trên, và thế tất
không thể tránh khỏi đẻ ra một cái chợ đen âm thầm mua bán chức quyền.
Nhiều năm ròng, nhất là từ sau 1975, trong Đảng đã diễn ra một hoạt động
rất nham hiểm, rất xảo quyệt là hoạt động
vu
tội cướp
công, cướp quyền.
Biết bao đồng chí tài năng và đức độ, một đời tận tuỵ dày công vì dân vì
nước đã là nạn nhân rất thảm khốc của thủ đoạn đó. Một bi kịch lớn trong
lòng Đảng đang ngày đêm huỷ hoại những gì lành mạnh nhất, tốt đẹp nhất,
quí giá nhất của Đảng kết tinh từ sự hy sinh xương máu của hàng triệu
nhân dân và đảng viên: công thần thì bị vu tội cướp công còn gian nịnh
thì leo lên vùn vụt dùng xảo thuật pháp lý tạo ra cả những tổ chức siêu
Đảng siêu Nhà nước tiến hành hoạt động phá hoại kéo dài có hệ thống, như
đại tướng Võ Nguyên Giáp đã chỉ rõ, kèm theo quá trình đó là sự tê liệt
sức chiến đấu ở hầu hết tổ chức Đảng. Đại đa số đảng viên đã tự buông
mất quyền làm chủ của mình trong Đảng, sinh hoạt Đảng trở nên hình thức,
ở các Đảng bộ hưu trí thì nội dung vụn vặt, vô hồn, ở các Đảng bộ cơ
quan thì cũng vô hồn không kém hoặc chỉ “có hồn” theo những cuộc đấu đá
sặc mùi xôi thịt. Ở cơ sở là thế mà huyện tỉnh trung ương cũng thế.
Đại hội Đảng lần thứ 6 đã vạch rõ
công tác tổ chức là
nguyên nhân của mọi nguyên nhân những thành tích và những sai lầm của
Đảng.
Nhưng từ Đại hội 6 đến nay, chưa hề có một cuộc tổng kiểm điểm đến nơi
đến chốn về công tác tổ chức, công tác cán bộ, đặc biệt là công tác
chuẩn bị nhân sự cho Trung ương và Bộ Chính trị các khoá. Tại sao lại
như vậy? Rất dễ hiểu, vì giặc nội xâm ẩn náu trong Đảng luôn ra sức ngăn
trở cuộc kiểm điểm ấy, bởi nếu kiểm điểm đến nơi đến chốn thì Đảng Đen
cùng cả một bè mảng thẻ-đỏ-tim-đen sẽ bị lôi ra ánh sáng.
Nhớ năm nào, nhà văn Sơn Tùng nói chuyện với cán bộ ở Chí Linh đã nói
thẳng rằng trong Bộ Chính trị chỉ có số ít đồng chí không tham nhũng.
Anh Sơn Tùng bị làm khó dễ một thời gian nhưng cuối cùng cũng chẳng làm
gì được anh vì anh phát biểu có căn cứ, có trách nhiệm. Các lão thành
cách mạng hỏi nhau: có phải báo
Nhân Dân
đưa tin Tổng Bí thư Đỗ Mười nhận quà biếu 1 triệu đô? Anh Lê Khả Phiêu
trả lời phỏng vấn của báo
Tuổi Trẻ
phơi bày một sự thật: có những phong bì hàng chục ngàn đô gài trong lẵng
hoa đem đến đặt ở phòng Tổng Bí thư, hẳn nhiên anh Phiêu không để cho
mình bị cuốn vào vòng ăn của đút nên mới dám công khai chuyện này? Anh
Đỗ Quang Thắng, lúc đương nhiệm Uỷ viên Bộ Chính trị, Chủ nhiệm Uỷ ban
Kiểm tra Trung ương, nói trực tiếp với tôi, trong cuộc tôi gặp anh ngày
19 tháng 3 năm 1995: “Anh có biết không, mỗi chữ ký của người ta hàng
trăm triệu đồng”.
Thời chống ngoại xâm, đạo đức cách mạng của cán bộ đảng viên là một sức
mạnh lớn, từ đó dấy lên sức mạnh không gì dập nổi của nhân dân. Nhưng
đến thời chống nội xâm, sức mạnh ấy bị mòn mỏi, bị huỷ hoại từng ngày,
và đồng thời bạo phát một thứ sức mạnh phản đạo đức, giả đạo đức của
giặc nội xâm. Các anh có nghe thấy ngày ngày vang lên khắp chốn
bài ca bia ôm
hát theo nhạc Trịnh Công Sơn (“Một cõi đi về”):
Nhân dân
chi tiền thì cứ bia ôm
Lâu lâu
bia ôm cho đời trẻ lại
Ai không
bia ôm một đời khờ dại
Kệ bố nhân
dân dù đói hay nghèo…
KỆ BỐ NHÂN DÂN
- đó là tuyên ngôn của giặc nội xâm đấy.
Các anh có nghe thấy không?
Toàn Đảng toàn Dân có nghe thấy không?
Tôi thường ngồi với các đảng viên lão thành, các cựu chiến binh, cứ bàn
đến chuyện chỉnh đốn xây dựng Đảng là mọi người lại hỏi nhau: “Này,
trong Bộ Chính trị hiện nay có ai là có đủ
tầm trí tuệ chiến
lược và
phẩm chất
đáng tin cậy?”
Mọi người nhìn nhau lắc đầu.
Lịch sử Đảng ghi rõ, vào giờ phút hiểm nghèo nhất khi chèo lái con
thuyền đất nước, để cho dân tin, Hồ Chủ tịch đã phải tuyên bố trước quốc
dân:
“Hồ Chí Minh không bán nước”.
Đó là lời thốt lên, giản dị và chắc nịch, từ đáy lòng một con người hoàn
toàn tự tin vào sự liêm khiết tận trung với nước của mình, lời ấy đi
thẳng vào lòng dân và dân tin ngay.
Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh hiện nay không mấy ngày không nhắc nhở đôn đốc
việc học và hành theo tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh. Tôi mong anh Nông
Đức Mạnh ngay ngày mai hãy lên đài tuyên bố:
“Nông Đức
Mạnh
này không tham nhũng”.
Nếu lời ấy phát ra từ đáy lòng một con người hoàn toàn tự
tin vào sự liêm khiết tận trung với nước của mình, thì tự nhiên nó cũng
đi thẳng vào lòng người dân, tạo nên ngọn trào toàn dân chống tham
nhũng, cuốn phăng mọi rác rưởi trong Đảng. Hiệu ứng ấy sẽ là minh chứng,
là thước đo cho bản lãnh, cho sự trong sáng trong tâm hồn người thủ
lĩnh. Và Bộ Chính trị hãy mời ngay đạo diễn nghệ sĩ nhân dân Trần Văn
Thuỷ, tác giả bộ phim nổi tiếng
Chuyện tử tế,
thực hiện gấp bộ phim
Chuyện nhà đất, phần 1 quay cảnh và phỏng vấn các quan chức từ Tổng Bí thư
đến bí thư xã xem nhà cửa đất đai của từng vị thế nào, phần 2 quay cảnh
và phỏng vấn những người dân bị mất nhà mất đất phải đi khiếu kiện ròng
rã.
Giặc nội xâm vừa là bọn tham nhũng đồng thời cũng là bọn chống dân chủ
(vì dân chủ chính là khắc tinh số một của tham nhũng), chúng vừa móc túi
dân, cướp đất dân vừa bóp cổ bịt miệng dân.
Giặc nội xâm nguy hiểm hơn ngoại xâm vì nó tác oai tác quái trong hoàn
cảnh đất nước đã độc lập, người dân bị mất nước mà vẫn lơ mơ huyễn tưởng
tự hào mình là dân một nước độc lập.
Rõ ràng công việc hệ trọng hơn hết, một công việc có tầm chiến lược, tầm
quốc sách là phải tiến hành ngay:
MỘT CUỘC VẬN ĐỘNG TOÀN ĐẢNG TOÀN DÂN CHUYỂN TOÀN BỘ SỨC MẠNH DÂN TỘC
TRONG CÔNG CUỘC CHỐNG NGOẠI XÂM TRƯỚC KIA VÀO CÔNG CUỘC CHỐNG NỘI XÂM,
XÂY DỰNG DÂN CHỦ CỨU NƯỚC CỨU NHÀ NGÀY NAY.
Cuộc vận động này nói chữ là DÂN CHỦ HOÁ, nói nôm na là một CUỘC ĐÒI NỢ.
Đây là món nợ xương máu mà những người cách mạng Việt nam nợ nhân dân
Việt nam. Ngay từ năm 1957, với tất cả nhạy cảm của một thi sĩ-chiến sĩ
cộng sản, nhà thơ Trần Dần (Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật)
đã sớm phát hiện những dấu hiệu giặc nội xâm ẩn náu trong bộ máy Đảng và
nhà nước mưu toan vỗ nợ, và lên tiếng cảnh báo:
Dù có thể
quen tay vỗ nợ
Chớ bao
giờ vỗ nợ nhân dân
Khi toàn dân tự xác lập được thế đứng của
người đi dẹp giặc
nội xâm,
người chủ
nợ
đi đòi nợ,
thì sức mạnh ghê gớm của cả một dân tộc chiến thắng ngoại xâm sẽ dần hồi
phục trong từng người dân Việt, và đương nhiên cái tập quán xin–cho rất
nguy hại ngự trị bao năm ròng sẽ dần bị loại khỏi đời sống xã hội.
Đây là cuộc vận động hướng vào thực chất của chuyển động xã hội, tiến
hành bằng một
phương pháp dễ làm
nhất, đảng viên nào, công dân nào cũng làm được, mà bước
đi ban đầu có thể tóm gọn trong mấy việc sau:
-
Từng đảng viên tự
thức tỉnh và thức tỉnh lẫn nhau về quyền làm chủ, từ nhận thức
chuyển ngay thành hành động, đảng viên làm chủ Đảng, làm chủ về tổ
chức, làm chủ về nội dung và phương thức sinh hoạt Đảng, làm chủ
việc lựa chọn nhân sự các cấp uỷ từ thấp đến cao và thường xuyên
giám sát hoạt động của cấp uỷ, đấu tranh kiên quyết để thay thế kịp
thời ở bất kỳ cấp nào những cấp uỷ viên không xứng đáng.
-
Từng đảng viên
thường xuyên thức tỉnh nhân dân và động viên nhân dân thức tỉnh lẫn
nhau về quyền làm chủ của người dân, công dân làm chủ các hội đoàn
mà mình tham gia, làm chủ về tổ chức, về nội dung và phương thức
sinh hoạt, làm chủ việc lựa chọn nhân sự.
-
Công dân làm chủ
các cuộc đại biểu Quốc hội, hội đồng nhân dân tiếp xúc cử tri và
thường xuyên áp sát, hậu thuẫn các đại biểu làm tròn phận sự đại
diện cho dân, trước mắt vận động đại biểu Quốc hội đấu tranh để sớm
có một bộ luật thực sự đảm bảo quyền tự do lập hội của công dân như
hiến pháp qui định, đồng thời cảnh giác ngăn chặn mưu toan hạn chế,
thủ tiêu quyền tự do lập hội bằng xảo thuật pháp lý.
-
Toàn Đảng toàn dân
ra sức đôn đốc các đại biểu Quốc hội gấp rút rà soát để sửa ngay
những bộ luật vi phạm hiến pháp, trước nhất là luật báo chí và luật
xuất bản, hai luật hiện hành này là hai luật thủ tiêu quyền tự do
báo chí và quyền tự do xuất bản của công dân.
-
Ra sức vận động để
tiến tới có một Quốc hội hoàn toàn chuyên nghiệp, thực hiện nguyên
tắc độc lập giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và quyền của
công luận thông qua báo chí tự do, từng bước sửa đổi Hiến pháp theo
hướng xây dựng nhà nước dân chủ pháp quyền phục vụ xã hội công dân,
và trong khi chưa bỏ điều 4 thì phải có ngay luật về sự lãnh đạo của
Đảng xác định rạch ròi quyền hạn và trách nhiệm, ngăn và chống tình
trạng lạm quyền lộng quyền nhân danh sự lãnh đạo của Đảng.
Khi đã thức tỉnh thì
mỗi đảng viên, mỗi người dân sẽ làm những việc trên như là tự tạo niềm
vui sống hàng ngày của mình, như là tự bồi đắp một tố chất mới hàng ngàn
năm nay chưa hề có trong con người Việt Nam mình, và chính con người mới
này là chủ thể quyết định của tiến trình dân chủ hoá đất nước Việt Nam.
Làm được như thế cũng chính là
nâng cao Đảng trí,
Dân trí,
cũng chính là
xây dựng một xã hội
dân sự, xã hội công dân
lành mạnh, văn minh mà thế giới không thể không đồng tình, ca ngợi.
Làm được như thế thì cuộc CHỐNG NỘI XÂM, XÂY DỰNG DÂN CHỦ sẽ được toàn
dân nô nức tham gia như ngày hội - ngày hội NGÀN NĂM CÓ MỘT!
Kính thư
Đà Lạt
ngày 03 tháng 10.2007
BÙI MINH QUỐC
03 Nguyễn Thượng Hiền - Đà Lạt
ĐT: 063 – 815459 * 0918007842
[1]Ý kiến phát biểu trong “Chương trình khoa học KX.10”
do Ban tổ chức Trung ương chủ trì năm 2004 (nhằm phục vụ cho Đại hội X
của ĐSCVN).
[2]Bản
ghi lại theo băng ghi âm
[3]Trả
lời phỏng vấn của Đoàn Giao Thuỷ,
Diễn Đàn,
28.7.2007.
[4]Diễn
Đàn,
9.8.2007.
LÝ LUẬN
VĂN HỌC
BÌNH LUẬN
PHỎNG VẤN
VỤ ÁN LIÊN QUAN
NHÓM ĐÀLẠT
TIỂU SỬ |
|