Không biết đã có nhà nghiên cứu nào mò mẫm
vào cái phạm trù đặc biệt này: tính thiêng
của thơ? Phần tôi, bằng sự trải nghiệm của
hơn năm mươi năm cầm bút, với tất cả sự dè
dặt, chỉ xin giãi bày đôi chút cảm và nghĩ.
Cảm và nghĩ này bắt đầu vụt loé trong tôi
vào năm 1992, khi đọc
Chân dung nhà văn
của Xuân Sách. Trước kia chỉ nghe
truyền miệng, các “Chân dung” cứ trượt đi
trong cái bầu khí bỗ bã cười đùa tếu táo, có
bài nghe xong tôi còn thầm trách ông Sách ác
khẩu. Giờ thì đọc đến đâu giật mình đến đấy.
Và ngộ ra: thơ thiêng lắm! Năm ấy tôi ghi
lại, bằng thơ, cảm nghĩ của mình:
Thơ thiêng lắm người ơi
Phản thơ thì phải chết
Chẳng ai giết mình mà mình tự giết
Cuộc
tự giết ấy đã
được nhà thơ Chế Lan Viên tự thổ lộ vào lúc
cuối đời (1989) trong bài “Trừ đi”:
Cái cần đưa vào thơ, tôi đã giết rồi
Quái lạ, sao vậy nhỉ?
Tôi (tức Chế Lan
Viên) là người làm thơ, một thần đồng thơ từ
16 tuổi, một (trong không nhiều) thi sĩ hàng
đầu của đất nước, mà sao
tôi lại
giết thơ?
Vì
tôi không còn là
tôi
nữa.
Cần phải hỏi tiếp: Vậy chớ vì sao
tôi
không còn là
tôi nữa?
Tại vì…
Tại vì…
Có cà lăm mấy thì cũng phải tự nhận 2 cái
“tại vì” này:
- Tại vì có một sức mạnh ở bên ngoài
tôi đã tàn bạo đang tay vo tròn
bóp méo tôi.
- Tại vì ở ngay trong tôi có
một sức mạnh ma quỉ nào đó chỉ riêng
tôi biết xui khiến tôi
phải tự vo tròn bóp méo mình.
Các nhà triết học gọi đó là trạng thái tha
hóa của con người, là đánh mất bản ngã, đánh
mất cái tôi. Cũng có người gọi là bán linh
hồn cho quỉ dữ.
Năm 1960, sau một thời gian dài không xuất
hiện, Chế Lan Viên bỗng tái xuất với tập thơ
Ánh sáng và phù sa được giới phê
bình nêu bật như ngôi sao trên văn đàn miền
Bắc trong tư thế một nhà thơ tiền chiến nhờ
đi theo Đảng đã vươn tới góp phần quan trọng
làm nên thành tựu thơ cho nền văn học cách
mạng. Giữa bản hợp xướng tôn vinh ồn ã, nghe
truyền miệng lạc dòng một giọng thơ thì thầm
khép nép nhưng rất lạ và… “láo” -
thơ
chân dung, của một anh lính nào đó có
tên là Xuân Sách vừa từ dưới đơn vị chuyển
về tạp chí
Văn nghệ Quân đội. Một
câu thơ tâm ngẩm tầm ngầm truyền lan như
điện giật:
“Lựa ánh sáng trên đầu mà
thay đổi sắc phù sa”.
Thế thôi, chỉ vẩy bút chấm phá sơ sơ thế
thôi, đã thấy hiện ra mồn một cái bản lai
diện mục ẩn kín của nhân vật đang rất “hoành
tráng” bề ngoài. Ghê thật. Cái thủ pháp vẽ
chân dung kiểu này quả là độc chiêu có lẽ
ông trời phú riêng cho Xuân Sách. Bài thơ
chân dung không nói là vẽ ai, nhưng mọi
người nghe qua đã biết liền đấy là Chế Lan
Viên, nhờ ngón lẩy chữ tài tình:
“ánh
sáng”,
“phù sa”.
Lựa ánh sáng trên đầu mà thay đổi
sắc phù sa.
Thế đấy, khi đã
lựa ánh sáng trên đầu mà
thay đổi sắc phù sa thì cũng là bắt đầu
tự giết rồi. Đấy là dùng thơ để đổi lấy cái
gì đó ngoài thơ, phản thơ chứ gì nữa. Quá
trình tự giết từ đấy tự vận hành bên trong
con người mình, không cưỡng nổi bởi lực đẩy
của những tham vọng ngoài thơ, phản thơ. Cứ
thế, âm thầm, một mình mình biết. Và đinh
ninh rằng chỉ một mình mình biết. Nhưng mà
không, nhầm to. Có người khác biết. Người đó
là Xuân Sách. Thế cho nên đến lúc có người
đọc cho Chế Lan Viên nghe bài thơ chân dung
Xuân Sách vẽ mình, Chế Lan Viên chỉ cười
cười lặng lẽ, lảng lảng, không cãi, và những
lần hội họp này khác có gặp Xuân Sách thì
vẫn bắt tay bình thường, sự thể ấy cũng
chính Xuân Sách đã kể với tôi.
Chế Lan Viên không cãi.
Nhưng Tố Hữu thì cãi.
Ông bảo, Xuân Sách viết
“máu ở chiến
trường hoa ở đây” là Xuân Sách phịa
(iời cãi này đã in trong một bài tường thuật
đăng trên báo
Văn nghệ).
Nhưng dù cố cãi thế nào thì Tố Hữu cũng
không thể gạt ra khỏi đời thơ của mình mấy
câu thơ này:
Yêu biết mấy nghe con tập nóii
Tiếng đầu lòng con gọi Xta-lin
Theo nhận xét của riêng tôi, đây là những
câu thơ vong bản nhất, cổ kim chưa từng có,
trong thơ Việt.
Hãy cứ tạm tin rằng khi đặt bút viết những
câu thơ vừa dẫn trên, Tố Hữu chưa có thông
tin gì về tội ác trời không dung đất không
tha của Stalin đối với nhân dân Liên Xô, trí
thức Liên Xô, và trước hết là đối với những
đồng chí cộng sản thân thiết từng kề vai sát
cánh cùng ông ta từ thuở nằm gai nếm mật,
mặc dù các thông tin đó đã công bố không ít
trên sách báo phương Tây. Và cũng tạm tin
rằng tấm lòng kính yêu sùng bái của Tố Hữu
đối với Stalin là thành thực. Nhưng dám vẽ
ra cái cảnh con mình, một đứa bé Việt Nam
cất tiếng đầu lòng không gọi “Mẹ” mà gọi
“Xta-lin” thì thật là một sự bịa đặt gượng
ép lố bịch quá quắt, đến nỗi tôi phải nghĩ
rằng đó là của ai khác viết ra chứ không
phải của tác giả “Nhớ đồng” (tên một bài thơ
của Tố Hữu mà tôi rất mê trong tập
Từ ấy
với những câu như
“Gì sâu bằng những
trưa thương nhớ/ Xao động bên trong
một tiếng hò”)
. Đâu rồi chàng
trai yêu nước yêu dân yêu tự do trong
Từ
ấy? Theo đà chín chắn hơn của tuổi tác,
chất vong bản không nhạt đi mà vẫn y nguyên
thế, nếu không nói là đậm hơn trong lời lẽ
bóng bẩy hơn:
“Mao Trạch Đông/ Bóng Người
cao lồng lộng/ Ấm hơn một ngọn cờ hồng”
(Tố Hữu – “Đường sang nước bạn”). Lời tụng
ca cất lên vào lúc tuy chưa có Cách mạng Văn
hóa Vô sản nhưng đã có Cải cách Ruộng đất và
Đại nhảy vọt mà Tố Hữu quá biết đã gây tai
họa như thế nào. Ở đây, rung động thơ không
còn thuần khiết cái trinh bạch của tâm hồn
cá thể trữ tình nữa mà đã có sự chi phối của
ý thức hệ giai cấp. (Thảm trạng ý thức hệ
giai cấp lấn lướt và thôn tính ý thức hệ dân
tộc diễn ra trong tâm thức đại đa số đảng
viên, nhất là đảng viên trung cao cấp, đã
đưa Đảng và toàn dân tộc sa vào một bi kịch
khủng khiếp dai dẳng như thế nào và hiện vẫn
còn là một vấn nạn lớn đã được một số nhà
nghiên cứu có tư duy độc lập phân tích phê
phán khá kỹ, xin tìm đọc Đào Phan, Hà Sĩ
Phu, Lữ Phương, Lê Hồng Hà…).
Những câu thơ nêu trên là cái dấu mốc cho
thấy Tố Hữu đã tự vo tròn bóp méo mình, đánh
mất mình, đã phản thơ.
Lô-gích tất yếu của sự phản bội: Tố Hữu, một
thi sĩ cách mạng hàng đầu, trở thành đao phủ
thủ hàng đầu hạ độc thủ các đồng nghiệp
Nhân văn.
“Người yêu người sống để yêu nhau”
– Tố Hữu viết thế, có thật
lòng không? Trong cái “yêu” ấy, có chỗ nào
của cái “yêu” mà Tố Hữu đã ban cho anh em
Nhân văn? Phùng Quán cũng “yêu” – “
Yêu
ai cứ bảo là yêu/ ghét ai cứ bảo là ghét.”
Cũng một chữ “yêu”, ở hai nhà thơ cách mạng,
một người nằm dưới lưỡi dao hành quyết của
người kia, thì ai nói thật lòng? Chắc chắn
chỉ là Phùng Quán – “
dù ai cầm dao dọa
giết/ cũng không nói ghét
thành yêu” - điều đó đã được định luận
bằng cả cuộc đời “
nhất quán tận can
trường” của ông.
“Cái ghế quan trường giết chết thơ”
– Xuân Sách viết thế, trong bài vẽ chân dung
Chính Hữu. Nhưng đâu phải chỉ Chính Hữu.
Nhìn kỹ lại, từ Tố Hữu đến các văn nghệ sĩ
dưới quyền ông trong hệ thống phẩm trật quan
trường hầu hết đều thế cả, nói cho chính xác
thì không phải cái ghế nó giết mà cái lòng
hám ghế nó thôi thúc đương sự tự giết mình,
giết thơ.
Tự giết mình đồng thời cũng không ngần ngại
giết cả đồng nghiệp, tiêu biểu là Tố Hữu như
nêu trên, và một người kế tục cũng khá tiêu
biểu: Nguyễn Khoa Điềm, tác giả câu thơ nổi
tiếng thời chiến tranh qua giai điệu của
Trần Hoàn
“mai sau con lớn làm người tự
do”, sang thời hậu chiến trở thành
người “tự do” ném vào máy nghiền cuốn
Chuyện kể năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn mà
nguyên trưởng Ban Văn hóa Văn nghệ Trung
ương, cố nhà văn Trần Độ coi là
“một
tiểu thuyết hiện thực lớn”. Bằng các
cuộc giết ấy, Nguyễn Khoa Điềm leo nhanh lên
những nấc ghế ngày càng cao, đến tận hàng
ghế tối cao, ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng
Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương, nắm giữ
guồng máy điều khiển gò siết trói buộc tư
duy của toàn Đảng toàn dân.
Nếu là người thuộc loại chuyên chú dốc lòng
theo nghiệp vua quan thì chắc chỉ có việc
rung đùi trên ghế, nhưng ở những người đã
trót tự nguyện mang lấy nghiệp thơ văn, thì
cái sức mạnh thiêng liêng của thơ, của văn
chương chữ nghĩa nó buộc phải đối mặt với
vấn đề này: cái mà ta tự giết và giết đồng
chí, đồng nghiệp để đổi lấy cái mà ta nghĩ
rằng giá trị hơn
(“cái ghế quan
trường”), rốt cuộc có giá trị hơn thật
không?
Tố Hữu phải nói lại về anh em
Nhân văn
những lời ngược hẳn trước kia (
Nhật
Hoa Khanh ghi). Chế Lan Viết “Bánh
vẽ”, “Trừ đi”, Nguyễn Đình Thi viết “Gió
bay”, Nguyễn Khải viết “
Đi
tìm cái tôi đã mất”.
Bài của Nguyễn Khải hiện đang gây chú ý cao
độ đối với văn giới Việt Nam. Và không chỉ
văn giới. Giáo sư Chu Hảo, giám đốc Nhà xuất
bản Tri thức cho tôi biết, trong cuộc gặp
ngày 19.5.2008 tại Hà Nội vừa qua giữa Ban
Bí thư với một số trí thức tên tuổi, ông đã
trao cho văn phòng Ban Bí thư bài “Đi tìm
cái tôi đã mất” và đề nghị các ủy viên Bộ
Chính trị, Ban Bí thư cần phải đọc trước khi
ra nghị quyết về “Xây dựng đội ngũ trí
thức…”
Nhà thơ
Dương Tường nhận xét, trong một
bài trả lời phỏng vấn:
“Trong Khải, luôn có hai con người. Một
Nguyễn Khải khôn khéo giả dối và một Nguyễn
Khải thành thật trắng trợn. Một Nguyễn Khải
hèn nhát và một Nguyễn Khải khinh ghét tay
Nguyễn Khải hèn nhát kia. Và sự tranh chấp
giữa hai con người ấy không bao giờ ngã
ngũ.”
Nhà phê bình
Vương Trí Nhàn:
“Gọi là ‘Đi tìm cái Tôi đã mất’ cho
sang. Ở đây tác giả không định đi tìm cái gì
cả... Thế tại sao Nguyễn Khải lại viết ‘Đi
tìm cái Tôi đã mất’? Theo tôi, trường hợp
này cũng giống như Chế Lan Viên viết ‘Di cảo
thơ’, và Tố Hữu tâm sự với Nhật Hoa Khanh.
Thực chất cái việc các ông ‘cố ý làm nhòe
khuôn mặt của mình’ như thế này là cốt để
xếp hàng cả hai cửa. Cửa cũ, các ông chẳng
bao giờ từ. Còn nếu tình hình hình khác đi,
có sự đánh giá khác đi, các ông đã có sẵn
cục gạch của mình ở bên cửa mới (bạn đọc có
sống ở Hà Nội thời bao cấp hẳn nhớ tâm trạng
mỗi lần đi xếp hàng và không sao quên được
những cục gạch mà có lần nào đó mình đã sử
dụng).”
Giáo sư
Nguyễn Huệ Chi:
“Bài
viết của anh Vương Trí Nhàn sắc sảo
quá, nhưng như một số bạn bè trao đổi với
nhau, cũng khí cay nghiệt quá.”
Vương Trí Nhàn có cay nghiệt quá không?
Xin trình ra đây một tư liệu để chúng ta
cùng tham chiếu:
“Bỗng nhiên có một nhà làm chính trị,
cũng là dân làm văn làm báo của Đảng từ
trước cách mạng, nhưng đã mất ngôi, mất
quyền, bèn đứng ra tổ chức một tờ báo cho
những nghệ sĩ ham chuộng tự do được tự do
bày tỏ nỗi niềm. Mình thì nói tự do về nghệ
thuật, họ thì nói tự do về chính trị, họ
muốn giành quyền, muốn đòi quyền, nhưng tự
họ không thể làm được những chuyện đó, thân
phận họ tầm thường, tài nghệ thì vớ vẩn, tập
hợp thế nào được dư luận và công chúng, nhất
là công chúng của chúng ta, mượn cả tiếng
kêu thống thiết và cảm động đòi tự do để
sáng tạo của chúng ta nữa. Nhà chính trị ấy
là ông Nguyễn Hữu Đang, ông đó mới thật là
linh hồn, kẻ xúi giục và tổ chức ra mọi sự
của cái thời ấy, mưu mô bị vỡ lở, kẻ chủ mưu
phải ngồi tù, mấy anh em mình không đi tù
nhưng bị treo bút mất mấy chục năm còn đau
đớn khổ cực hơn cả đi tù. Mấy ông chính trị
thất thế, lắm tham vọng, lắm mưu mô, có đi
tù tôi cũng không thương. Đã theo cái nghề
ấy phải chịu cái nghiệp ấy, chỉ thương anh
em mình lòng trong dạ thẳng, nông nổi thơ
ngây, cứ nghĩ bụng dạ họ cũng như mình, nào
ngờ họ lại nghĩ ngợi sâu xa đến thế.”
Đấy là tôi trích thư của nhà văn Nguyễn
Khải, phó Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam
viết ngày 01/9/1988 từ TP HCM gửi Hội nghị
lần thứ 7 Ban chấp hành Hội. Thư này được bộ
phận thường trực Hội chính thức sao gửi đến
từng hội viên. Thời gian này đang chuẩn bị
tiến tới Đại hội lần thứ tư của Hội. Những
lời miệt thị tàn nhẫn mà Nguyễn Khải chĩa
vào ông Nguyễn Hữu Đang thoạt tiên khiến tôi
ngạc nhiên, nhưng bình tĩnh mà nghĩ mới thấy
thực chất là nhằm vào ông Trần Độ, Trưởng
Ban Văn hóa Văn nghệ. Chẳng lẽ, sâu xa trong
lòng mình, Nguyễn Khải có thể nhẫn tâm đến
thế với Trần Độ, một cán bộ lãnh đạo hiếm
hoi mà Nguyễn Khải biết rất rõ là người luôn
thật lòng yêu quý kính trọng văn nghệ sĩ và
có công lớn qua việc chuẩn bị rất công phu
để Bộ Chính trị cho ra được “Nghị quyết 05
về văn hóa văn nghệ” làm nức lòng toàn thể
anh chị em văn nghệ? Nguyễn Khải cũng biết
rất rõ Trần Độ là người đã khéo léo vận động
để Tổng thư ký Nguyễn Đình Thi đề xuất đưa
Nguyên Ngọc (bí thư Đảng đoàn Hội, bị thất
sủng sau
vụ “Đề dẫn”) trở lại làm Tổng
biên tập báo
Văn nghệ, và Nguyên
Ngọc đã mau chóng đưa tờ báo tiến lên đứng ở
tuyến đầu của cuộc chiến đấu cho đổi mới,
đổi mới thật chứ không phải
“giả vờ
đổi mới” (chữ của Nguyễn Duy trong
một bài thơ viết cũng trong thời gian ấy).
Không, có lẽ đây chẳng qua là Nguyễn Khải
dứt khoát vứt béng cái tôi của mình đi để tỏ
rõ với cấp trên rằng trước kia dù mình có
trót hăng hái đồng tình với Nguyên Ngọc và
Trần Độ nhưng nay thì đã dứt khoát lập
trường với hai người ấy. Với sự thính nhạy
đặc biệt, Nguyễn Khải đã sớm thấy bên trên
Trần Độ có người ngoài miệng hô “cởi trói”
nhưng thâm tâm chỉ muốn đối với văn hóa văn
nghệ thì mọi sự cứ phải trói chặt lại y như
cũ. Và chính tại hội nghị ngày 11/9/1988,
Ban chấp hành Hội Nhà văn đã ra nghị quyết
giáng cho báo
Văn nghệ một chùy rất
nặng, cũng tức là giáng cho Nguyên Ngọc và
Trần Độ, dẫn đến việc Nguyên Ngọc, rồi Trần
Độ phải rời khỏi chức vụ. (Nguyễn Khải khôn
khéo tránh mặt không dự hội nghị, chỉ gửi
bức thư mà tôi trích dẫn bên trên, nội dung
thật là hiểm, tạo thêm nhân cốt cho quả chùy
đang chuẩn bị vung lên.)
Tố Hữu, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi,
Nguyễn Khải đã ra người thiên cổ. Những gì
ngòi bút các ông viết ra – nói như Gorki -
rìu cũng không bổ được, còn nguyên đó. Các
ông sống thế nào, mọi người dần dần rồi sẽ
biết cả, kể cả những gì còn ẩn khuất. Những
chữ nghĩa của các ông mà Xuân Sách lẩy thành
thơ chân dung, cũng còn nguyên đó.
Hậu thế sẽ tiếp tục đọc và suy ngẫm, và
chiêm nghiệm.
Nguyễn Khoa Điềm thì hiện đang sống và viết
ở Huế, sau khi thôi chức ủy viên Bộ Chính
trị, Trưởng Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương.
Sau cái đận Nguyễn Khoa Điềm nghiền sách của
Bùi Ngọc Tấn, dễ đến mấy lần tôi nói với nhà
thơ Xuân Sách: “Ông Sách ơi, thế này thì
chân dung Nguyễn Khoa Điềm phải có phần 2
chứ?”. Ông Sách chỉ tủm tỉm cười: “Ờ…Ờ…”.
Chờ mãi không thấy ông viết phần 2.
Hóa ra tôi ngu quá. Đọc kỹ lại cái chân dung
Nguyễn Khoa Điềm, tôi mới thấy tôi ngu quá.
Mà ông Sách thâm thật.
Xin dẫn ra đây cái chân dung ấy:
Một mặt đường khát vọng
Cuộc chiến tranh đi qua
Rồi trở lại ngôi nhà
Đốt lên ngọn lửa ấm
Ngủ ngon a cay ơi
Ngủ ngon a cay à
Và càng thấy ông Sách thâm khi đọc mấy câu
nhại của Hà Sĩ Phu:
Ngủ cho ngoan Mẹ ơi
Ngủ cho ngoan Mẹ hỡi!
Ngự trên lưng Mẹ
Con vô Thiên đường
Mẹ mà thức dậy
Con cho “lên… phường!”
....
Ai mà thức dậy
Vung chày là xong
Ông Sách thâm. Và thơ rất thiêng. Văn chương
chữ nghĩa rất thiêng. Cái thiêng bắt nguồn
từ một đòi hỏi hết sức nghiệt ngã của cái
nghiệp này: lúc nào cũng phải xuất phát từ
tấm lòng thành tuyệt đối – một sự
“chân
thành không biết sợ” (chữ của Stefan
Zweig nói về Lev Tolstoy. Sống và viết, viết
và sống phải trung thực, đơn giản có vậy
thôi.
“Chảy từ mạch máu ra là máu, từ
cái vòi nước ra thì chỉ là nước lã”,
tưởng không thể không nhắc lại luôn cả lời
ấy của Lỗ Tấn.
Đã có nhiều bài bình luận phân tích về
Thơ chân dung của Xuân Sách. Nhưng tôi
thích nhất mấy lời bình ngắn gọn sau đây của
Hà Sĩ Phu:
“Vị nghệ thuật nửa cuộc đời
Nửa đời sau lại vị người ngồi trên”
[1]
Nét này vẽ bác Lan Viên?
Bác Hữu?
Bác Cận?
Hay riêng bác Hoài?
Chân dung các bác ngời ngời
Chém cha riêng cái nửa đời phía sau
Một đời, hai nửa, vì đâu?
Nửa say quỷ kế, nửa đau nhân tình.
Quả thật
Thơ thiêng lắm, người ơi
Phản thơ thì phải chết
Chẳng ai giết mình mà mình tự giết
Treo nỗi nhục muôn đời.
Đà Lạt 28.06.2008