"Sau mấy chục năm được nhà trường xã hội chủ nghĩa trau dồi bao nhiêu tri thức về khoa học tự nhiên, về triết học Mác-Lê, về chính trị ... thì bây giờ các chi bộ lại không còn coi chúng tôi là thành phần công nông gần đảng nữa mà chuyển thành tầng lớp trí thức tiểu tư sản bấp bênh ! Trở thành kỹ sư, tiến sĩ, giáo sư ... thì lại xa đảng hơn lúc chưa đi học !. Nghĩa là trên thực tế thì chất Đảng ngược chiều với chất trí thức ! Đó là điều nghịch lý".....Dắt Tay Nhau, Đi Dưới Tấm Biển Chỉ Đường của Trí Tuệ - Hà Sĩ Phu 1988
"Khẳng định vai trò quyết định của tự do và phát triển không có nghĩa là khi có hai điều kiện ấy thì tự khắc sẽ có Bình đẳng và Bác ái mà không cần đến hoạt động khuyến thiện và nỗ lực tranh đấu của con người. Không thể lấy khát vọng thay cho qui luật, nhưng khát vọng đúng sẽ xúc tiến nhanh qui luật...." Đôi Điều Suy Nghĩ của Một Công Dân - Hà Sĩ Phu 1993
"Mọi hoạt động Tranh đấu của con người từ cổ chí kim , không có gì ra ngoài ý nghĩa của chữ QUYỀN CON NGƯỜI. "Quyền Con người" ngày nay đã trở thành vấn đề toàn cầu không nước nào có thể lẩn tránh, điều ấy đánh dấu một bước trưởng thành khổng lồ của văn minh nhân loại. Ở đâu có áp bức bất công, ở đâu con người bị đối xử phi lý đều có thể tìm nơi "Quyền Con Người" một điểm tựa để tranh đấu, ít nhất cũng là điểm tựa tinh thần. Mặt khác. từ ánh sáng chung nhất về "Quyền Con Người", con người có thể nhìn lại những trào lưu Tranh đấu của mình một cách có cơ sở khách quan, khoa học và sáng suốt hơn..." Chia Tay Ý Thức Hệ - Hà Sĩ Phu 1995
|
|
Nhóm Thân Hữu ĐàLạt - Mai Thái Lĩnh
HUYỀN THOẠI VỀ MỘT NHÀ NƯỚC TỰ TIÊU VONG – MAI THÁI LĨNH
Chương X
Sự tan vỡ của một huyền thoại
”Nhà nước tự tiêu vong”, suy cho cùng, chỉ là một huyền thoại.
Nhưng nó lại là một trong những huyền thoại căn bản của chủ nghĩa cộng
sản, bởi vì Marx đã dựa vào nó để xây dựng nên quan niệm “chuyên
chính vô sản” cũng như toàn bộ lý thuyết về nhà nước nói chung.
Chính vì tin rằng nhà nước nhất định sẽ biến mất cùng với chế độ tư hữu
về tư liệu sản xuất cho nên Marx và Engels đã nêu ra giải pháp chuyên
chính vô sản như một hình thức nhà nước quá độ và tạm thời
trong khi chờ đợi một thời kỳ hoàng kim với một xã hội hoàn toàn tự
quản, không cần đến nhà nước.
Sau khi hai ông mất, quan niệm chuyên chính vô sản không tìm được
mảnh đất thuận lợi để phát triển. Ở các nước phương Tây, nơi các giá trị
dân chủ đã thấm sâu vào đời sống văn hoá và chính trị, phong trào công
nhân dần dần từ bỏ con đường chuyên chính vô sản và hội nhập vào chế độ
dân chủ hiện đại. Chế độ đại nghị ngày càng được hoàn thiện, chấp nhận
chỗ đứng của các đảng công nhân, của phong trào công đoàn, kể cả quyền
hoạt động chính trị của các đảng cộng sản – nghĩa là những đảng mà mục
tiêu chiến lược là lật đổ chính chế độ dân chủ đại nghị. Quan niệm
chuyên chính vô sản mất sức sống ngay trên mảnh đất nó được sinh ra.
Chính Lenin, một nhà cách mạng xuất thân từ nước Nga - một quốc gia lạc
hậu ở châu Âu, là người đã làm sống lại quan niệm chuyên chính vô
sản.
Mặc dù sống lưu vong trong nhiều năm ở các nước Tây Âu, Lenin không tiếp
thu được các giá trị dân chủ ở đó, và trong nhận thức vẫn chịu ảnh hưởng
nặng nề của nền văn hoá phong kiến lạc hậu, phi dân chủ dưới chế độ Sa
hoàng. Trong khi nghiên cứu chủ nghĩa Marx, thay vì biết phê phán, chọn
lọc, ông đã tiếp thu toàn bộ các khía cạnh tiêu cực của học thuyết, kể
cả những khái niệm phản tiến bộ như chuyên chính vô sản. Mặt
khác, trong cuộc đấu tranh tư tưởng với những người xã hội-dân chủ khác,
ông không thể tự nhận mình là độc tài, chống lại các giá trị dân chủ, vì
lúc đó dân chủ đã trở thành mục tiêu chung của phong trào công
nhân trên khắp lục địa châu Âu. Do đó, ông tìm cách biện minh cho con
đường chuyên chính vô sản bằng thủ thuật đánh tráo khái niệm: đề
ra khái niệm dân chủ vô sản như một cực đối lập với cái mà ông
gọi là dân chủ tư sản. Về mặt sách lược, Lenin chủ trương rằng
khi chưa nắm được quyền lực tuyệt đối, những người cộng sản vẫn có thể
cộng tác với các lực lượng đấu tranh cho dân chủ, coi việc đấu tranh cho
các mục tiêu dân chủ trước mắt như một biện pháp cần thiết để tập hợp
quần chúng xung quanh đảng cộng sản. Những lý do đó đã khiến cho nhiều
người lầm tưởng rằng Lenin là một người yêu dân chủ và có thể xây dựng
được một chế độ dân chủ thật sự dựa trên lý luận của Marx và Lenin.
Marcel Liebman là một trường hợp điển hình. Mặc dù thừa nhận những
khuyết điểm của chế độ chính trị xô-viết, nhà chính trị học mác-xít
người Bỉ này chỉ phê phán Stalin trong khi vẫn ca ngợi quan niệm “dân
chủ vô sản” của Lenin. Theo Liebman, nền dân chủ vô sản là một nền dân
chủ “trực tiếp, cụ thể và mang tính nhân dân”. Đáp lại lời chỉ
trích tính không tưởng của quan niệm đó, ông viết:
Nhưng đó chỉ là một sự
chỉ trích tầm thường và hời hợt: không có một dự phóng cách mạng nào
lại không có một lý tưởng vĩ đại làm bệ phóng cho nó và đem thắng
lợi đến cho nó. Những người có đầu óc thực tế và các sử gia hoàn
toàn có quyền đánh giá khoảng cách giữa cái không tưởng
(utopique) với cái có thể (le possible), nhưng họ không
phải là nguồn cảm hứng cho những người làm nên các công trình lịch
sử vĩ đại và những nhà sáng lập nên các xã hội mới. Nền dân chủ của
những người bolshevik thuộc về một quan niệm độc đáo và táo bạo –
hoàn toàn đoạn tuyệt với tất cả mọi sự nhẫn nhục và mọi điều tầm
thường. Họ không chỉ bằng lòng với việc biến những người nô lệ ngày
hôm qua thành những người nổi dậy ngày hôm nay. Họ nhìn thấy trong
những người nô lệ ấy những chủ nhân và những nhà hành chính của
tương lai.
[1]
Trong thực tế, nền dân chủ vô sản (một tên gọi khác của chuyên
chính vô sản) chỉ là một huyền thoại, bởi lẽ nó được xây dựng dựa
trên huyền thoại “nhà nước tự tiêu vong”. Xét về mặt logic, nếu
nhà nước có nguồn gốc phát sinh độc lập với các nguyên nhân kinh tế thì
việc xoá bỏ chế độ tư hữu không thể dẫn đến một nhà nước tự tiêu vong mà
chỉ có thể dẫn đến một nhà nước tập quyền kiểu mới. Nền chuyên chính
quá độ và tạm thời xét về mặt lý thuyết tất yếu sẽ trở thành
một nền chuyên chính ổn định và lâu dài trong thực tế; nền
chuyên chính này coi việc duy trì độc quyền chính trị như một cứu cánh,
một lẽ sống còn. Sự mâu thuẫn, trật khớp giữa lý thuyết và thực tiễn đó
buộc những nhà lãnh đạo cộng sản phải củng cố và nuôi dưỡng huyền thoại
“dân chủ vô sản” nhằm biện minh cho chế độ chuyên chính vô sản,
tạo cho nó một lớp vỏ hiện đại, dễ coi nhằm lừa mị quần chúng, đánh lừa
nhân dân.
Mặc dù Lenin là người sáng tạo nên huyền thoại “dân chủ vô sản”,
nhưng có thể nói chính Stalin mới là người đem lại sức sống cho huyền
thoại đó, làm cho nó trở thành một trong những huyền thoại quan trọng
nhất của chủ nghĩa cộng sản, có ảnh hưởng lớn lao trong thế kỷ XX. Là
một nhà độc tài bẩm sinh, Stalin đã giành được vị trí cao nhất trong chế
độ xô-viết chủ yếu bằng con đường bạo lực, bằng những biện pháp phản dân
chủ. Nhưng hơn ai hết, ông hiểu rằng không thể duy trì được quyền lực
một cách lâu bền nếu chỉ dựa vào các biện pháp đàn áp, cưỡng bức. Vì
vậy, ông rất coi trọng các thủ đoạn mị dân, lừa bịp.
Khác với Marx và Lenin - vốn là những người quyết liệt chối bỏ những
hình thức của chế độ đại nghị, Stalin đã tìm cách “vận dụng” một số hình
thức của chế độ này nhằm mục đích che đậy thực chất của chế độ độc tài
toàn trị. Vào nửa cuối thập niên 1930, song song với quá trình thanh
trừng nội bộ một cách đẫm máu nhằm triệt tận gốc các “đồng chí”
bolshevik cựu trào, Stalin đã tiến hành soạn thảo một bản hiến pháp mô
phỏng theo hiến pháp của các nước dân chủ phương Tây. Một Uỷ ban soạn
thảo hiến pháp được thành lập vào tháng 2 năm 1935, vài tháng sau khi
xảy ra vụ ám sát Kirov. Bản hiến pháp được chính thức ban hành vào tháng
11 năm 1936, được giới thiệu như một bản hiến pháp “dân chủ nhất thế
giới”. Nhưng cũng từ năm 1936 cho đến năm 1938, cuộc Đại Thanh Trừng
(Great Purge) đẫm máu đã diễn ra, với hàng loạt vụ án công khai và bí
mật. Tháng 8 năm 1936, Zinoviev và Kamenev bị truy tố về những tội hoàn
toàn bịa đặt và bị xử bắn. Tháng 6 năm 1937, Nguyên soái Tukhachevsky,
nhà lãnh đạo quân sự có uy tín nhất vào thời đó, đã bị lôi ra toà án
quân sự về tội mưu phản và bị hành quyết cùng với một số tướng lãnh cao
cấp khác. Ngay cả Bukharin và Radek, những tác giả của bản hiến pháp năm
1936 nói trên, cũng không thoát khỏi tội chết: cả hai ông đều bị kết tội
tử hình vào tháng 3 năm 1938. Các vụ án mang tính chất khủng bố nói trên
chứng tỏ các quyền tự do căn bản của công dân, các quyền con người
được ghi vào hiến pháp chỉ nhằm mục đích tuyên truyền, lừa bịp quần
chúng, loè bịp phương Tây chứ không phải để thực thi. Trong các vụ án
giả tạo nói trên, các nạn nhân đều bị kết án dựa trên lời nhận tội,
ngoài ra không có chứng cứ nào khác được kiểm chứng bằng các thủ tục
pháp lý thông thường. Trong số những người có mặt ở hàng ghế bị cáo
trong các phiên toà đó, người ta có thể điểm danh tất cả các thành viên
của Bộ chính trị thời Lenin, chỉ trừ chính Stalin và Trotsky (riêng ông
này đã bị trục xuất ra khỏi lãnh thổ Liên Xô vào năm 1929 và bị ám sát
tại Mexico vào tháng 8 năm 1940). Điều đó cho thấy ngay cả những người
đã từng là cấp lãnh đạo cũng không được hưởng đầy đủ quyền con người và
quyền công dân, nói gì đến những thường dân hoặc những người đã từng là
“kẻ địch”.
Điều đáng nói hơn nữa là mặc dù áp dụng một số hình thức của chế độ đại
nghị phương Tây, Stalin không bao giờ chấp nhận các nguyên tắc căn bản
của chế độ ấy. Lấy lý do chế độ dân chủ vô sản khác biệt về chất
so với chế độ dân chủ tư sản, ông không chấp nhận nguyên tắc tam quyền
phân lập, không chấp nhận chế độ đa đảng, không chấp nhận tính đa nguyên
về tư tưởng.
Như một số nhà viết tiểu sử đã lưu ý, Stalin xuất thân là một chủng sinh
trong trường dòng chính thống giáo ở Tbilissi, do đó ông rất am hiểu tác
dụng của các nghi lễ tôn giáo, cũng như tác dụng của các huyền thoại tôn
giáo. Điều này có thể thấy rõ qua việc ông tổ chức tang lễ cho Lenin,
xây dựng lăng tẩm kiểu mới ở Quảng trường Đỏ (Moskva), biến Lenin thành
một vị thánh nhằm giành lấy cho mình vị trí của một á thánh. Stalin đã
chỉ đạo việc biên tập cuốn Lịch sử Đảng cộng sản Liên Xô, vẽ lại
lịch sử của cách mạng bolshevik theo ý đồ riêng của mình, xoá bỏ công
lao của một loạt các lãnh tụ cách mạng như: Trotsky, Kamenev, Zinoviev,
Bukharin, vv… Sự cắt xén, xuyên tạc lịch sử theo kiểu Stalin đã trở
thành khuôn mẫu cho tất cả các sử gia mác-xít lê-nin-nít sau này: các sự
kiện lịch sử được thổi phồng hay bị bóp méo; các nhân vật lịch sử bị bỏ
quên hay bôi nhọ, các “lãnh tụ” hay “anh hùng” được tô hồng, thần thánh
hoá,v.v… Lịch sử được bào chế trong phòng thí nghiệm của các “sử gia”
giàu tính giai cấp, dưới sự chỉ đạo của các nhà cách mạng chuyện nghiệp,
trở thành vũ khí tuyên truyền cho Đảng cộng sản cầm quyền. Cộng vào đó
là các tác phẩm văn học nghệ thuật mà tôn chỉ là khuôn hiện thực theo ý
thức hệ mác-xít lê-nin-nít hơn là tôn trọng sự thật, phục vụ cho ý đồ
chính trị nhiều hơn là các giá trị nhân bản. Những tác phẩm này đã góp
phần lớn lao vào việc hình thành và nuôi dưỡng các huyền thoại cộng sản,
che giấu sự thật, xoá mờ chân lý.
Tất cả đã góp phần tạo ra một nếp sống dân chủ kiểu mới rất kỳ
lạ, hoàn toàn khác với nếp sống dân chủ ở các nước phương Tây. Nếp sống
đó có bề ngoài rất cách mạng, dân chủ, bình đẳng nhưng nếu xem
xét kỹ, chúng ta thấy bên dưới lớp vỏ hào nhoáng, hiện đại ấy lại là một
chế độ quân chủ phương Đông được tái tạo với một dáng dấp mới:
Thay vì gọi Ngài, bẩm quan, người ta gọi đồng chí.
Thay vì gọi Vua, người ta gọi Tổng bí thư hay Chủ tịch.
Thay vì bổ nhiệm, người ta đề cử để rồi giả vờ tham khảo ý
kiến của cử tri, sau đó tổ chức bầu cử một cách hết sức tốn kém, rườm
rà, nhằm tạo ra cái vỏ dân cử cho những nhân vật đã được Đảng
cử từ trước. Bên cạnh hệ thống nhà nước, Đảng cộng sản tạo ra một hệ
thống tổ chức quần chúng mang danh nghĩa là đại diện cho các giới
trong xã hội, nhưng thực chất vẫn là do những người của Đảng cử ra điều
khiển. Hệ thống này đóng vai trò ông Thiện để xoa dịu quần chúng,
gỡ rối cho những hành vi sai phạm của ông Ác, tức các cơ quan Nhà
nước. Đảng mặc dù là siêu-nhà nước, chỉ đạo hoạt động của toàn bộ hệ
thống chính trị, nhưng luôn luôn giả vờ làm như vô can. Mỗi khi
nhà nước có biểu hiện bê bối, tham nhũng, Đảng lại đứng ra làm trọng
tài, giả vờ xử lý kỷ luật, trừng phạt những kẻ làm sai – nhưng thực chất
là tìm cách bao che, bảo vệ quyền lợi cho địa vị thống trị của đẳng cấp
cầm quyền. Cái màn kịch đó được diễn hết sức khéo léo, cốt tạo ra trong
quần chúng cái ý tưởng: Đảng không bao giờ sai lầm, chỉ có một số đảng
viên, cán bộ nắm quyền trong bộ máy nhà nước có thể phạm sai lầm; Đảng
bao giờ cũng sáng suốt, bao giờ cũng vì quyền lợi của giai cấp, vì quyền
lợi của nhân dân, chỉ có một thiểu số (nhỏ, cực kỳ nhỏ) cán bộ,
đảng viên là thoái hoá, biến chất. Sai lầm, tội ác được gán cho những
cán bộ cấp dưới (trong thực tế là những con dê tế thần), để bảo
đảm cho các lãnh tụ anh minh được muôn đời sáng suốt, trong sạch.
Xét về mặt lịch sử, đảng cộng sản không phải là lực lượng đầu tiên và
duy nhất sử dụng các huyền thoại vào mục đích chính trị, nhằm
củng cố cho địa vị thống trị của mình. Trong các nền văn minh cổ đại,
các dòng họ cầm quyền ở Trung Quốc, Ai Cập, Đế quốc Hittite, Polynesia,
Đế quốc Inca, Ấn Độ,… đã thường xuyên viện dẫn các huyền thoại để biện
minh cho địa vị thống trị của họ, chẳng hạn để giải thích rằng họ có
nguồn gốc từ thần thánh. Các đẳng cấp ưu tú cũng dựa trên huyền thoại để
giải thích những đặc quyền đặc lợi, để hợp lý hoá địa vị ăn trên ngồi
trước của họ.
Huyền thoại dân chủ vô sản cũng nhằm mục đích biện minh cho địa
vị thống trị độc quyền của Đảng cộng sản, giải thích những đặc quyền đặc
lợi của đẳng cấp thư lại chính trị mà nòng cốt là các đảng viên
cộng sản. Đảng cộng sản giữ địa vị lãnh đạo vì nó là đại diện của giai
cấp vô sản, giai cấp tiên tiến của thời đại, một giai cấp mang sứ mệnh
lịch sử giải phóng toàn thể nhân loại khỏi mọi ách áp bức bóc lột. Đảng
cộng sản là thực thể trung gian (tương tự như giáo hội của các tôn giáo)
có nhiệm vụ và quyền hạn đóng con dấu “tiên tiến” hoặc “lạc hậu”, “phản
động” lên mỗi cá nhân trong xã hội, và căn cứ vào đó mà ban phát địa vị,
quyền hành và những quyền lợi vật chất kèm theo. Do đó, nếu đảng viên có
địa vị chính trị cao hơn quần chúng bình thường thì đó cũng là lẽ đương
nhiên, là điều tất yếu; nếu quần chúng không thông về tư tưởng thì phải
tìm cách “cải tạo”, “giáo dục” tư tưởng cho họ. Mặt khác, huyền thoại đó
cũng nhằm mục đích biện minh cho hệ thống đẳng cấp nội bộ nhằm duy trì
quyền lực tối cao của Bộ chính trị, của Tổng bí thư hay Chủ tịch Đảng.
Nguyên tắc “tập trung dân chủ” vì vậy đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt
toàn bộ các hoạt động của Đảng cầm quyền.
Sau khi Stalin mất đi, huyền thoại dân chủ vô sản được tô vẽ lại,
những nét thô thiển được gọt dũa, nhiều hình thức mới học tập từ các
nước dân chủ phương Tây được thêm thắt vào, tuy nhiên các nguyên tắc căn
bản vẫn không hề thay đổi. Ở một số nước Đông Âu, các nhà lãnh đạo cộng
sản còn “vận dụng” cả các kinh nghiệm của phương Tây để sáng tạo ra một
thể chế đa đảng giả hiệu: bên cạnh đảng cộng sản còn có một số
“đảng bạn” để làm chậu kiểng hay đóng vai trò đối lập “cuội”, nhằm chứng
minh cho phương Tây thấy tính chất “dân chủ” của chế độ chính trị “xã
hội chủ nghĩa”. Trong thực tế, các đảng này không có chút thực lực nào,
và không hề xâm phạm tí nào đến vai trò độc quyền chính trị của đảng
cộng sản.
Đảng sáng suốt thay cho vai trò của một đấng minh quân. Chế độ
dân chủ hình thức - dân chủ giả hiệu thay thế cho chế độ quân chủ
kiểu phương Đông. Đó chính là thành quả của cuộc cách mạng vô sản,
cuộc cách mạng được mệnh danh là toàn diện, triệt để nhất trong
lịch sử loài người. Và người dân sống trong chế độ toàn trị đó lại được
ăn một cái bánh vẽ lớn và hấp dẫn cũng chưa từng có trong lịch sử
nhân loại.
Để nuôi dưỡng huyền thoại dân chủ vô sản cũng như các huyền thoại
khác của chủ nghĩa Marx, Đảng cộng sản cầm quyền áp dụng một loạt các
biện pháp như: xoá bỏ các quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do
báo chí, tự do xuất bản, v.v… Tất cả các triết học đều bị cấm chỉ, trừ
triết học Marx trở thành ý thức hệ chính thống, bị bắt buộc phải học
trong tất cả các nhà trường. Chủ nghĩa Marx trở thành chủ nghĩa giáo
điều, được Stalin gọi tên là chủ nghĩa Marx-Lenin
(Marxism-Leninism, Marxisme-Léninisme). Hệ thống trường Đảng được
phát triển rộng khắp, và cùng với nó là hệ thống các viện nghiên cứu, mà
mục đích chủ yếu là để củng cố, duy trì các huyền thoại của chủ nghĩa
cộng sản. Các tôn giáo mặc dù vẫn được phép tồn tại nhưng bị hạn chế
bằng nhiều thủ đoạn, nhằm bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của ý
thức hệ Marx-Lenin như một thứ tôn giáo mới. Cả một tầng lớp trí
thức mệnh danh là trí thức mới, trí thức xã hội chủ nghĩa được
đoàn ngũ hoá, được đưa vào nền nếp kỷ luật để nói cùng một tiếng nói:
tiếng nói của Đảng. Ai nói khác đi lập tức bị quy kết là xét lại, là
phản động, là tiếp tay cho địch, v.v…
Nhưng chân lý khoa học vẫn luôn luôn mâu thuẫn với huyền thoại. Khác với
huyền thoại tôn giáo, huyền thoại cộng sản là huyền thoại gắn với trần
gian, với thế giới bên này (au-delà), với thế giới hiện thực trước mắt.
Trong khi tôn giáo kêu gọi con người hướng về điều thiện, sống một cách
đạo đức để đạt được hạnh phúc ở đời sau hoặc ở cõi khác
thì chủ nghĩa cộng sản lại hứa hẹn hạnh phúc ngay trong cõi đời này, hô
hào sử dụng bạo lực để xây dựng một thiên đường ngay trên hạ giới. Do
đó, theo thời gian, mâu thuẫn giữa huyền thoại và thực tế không thể
không bộc lộ, và người nhìn thấy rõ mâu thuẫn ấy trước hết chính là
những trí thức phản tỉnh. Chế độ toàn trị hết sức nhạy cảm với tiếng nói
của những trí thức ấy, do đó họ luôn tìm cách trừng trị, bịt miệng họ.
Do mâu thuẫn giữa huyền thoại và thực tế là mâu thuẫn thuộc về bản chất
của chế độ dân chủ vô sản, những hiện tượng phi dân chủ, phản dân chủ
không ngừng phát sinh, sự phản kháng của những trí thức bất đồng
chính kiến tuy có lúc tạm thời bị đè nén hay dập tắt, nhưng không ngừng
bùng phát trở lại. Điều đó giải thích tại sao cuộc đấu tranh đòi dân chủ
ở các nước xã hội chủ nghĩa theo mô hình xô-viết lại thường khởi đầu
bằng cuộc đấu tranh của giới trí thức. Cuộc đấu tranh ấy không sinh ra
từ âm mưu can thiệp của nước ngoài hay từ các thế lực đế quốc, tư bản
như các đảng cộng sản cầm quyền thường rêu rao mà phát sinh từ chính
thực tế phản dân chủ của các xã hội mệnh danh là “xã hội chủ nghĩa”,
phát sinh từ tính chất huyền thoại của chế độ dân chủ vô sản, từ sự thức
tỉnh của một bộ phận trí thức tiên tiến nhìn thấy được thực chất của
những huyền thoại ấy.
Nói cách khác, cuộc đấu tranh để phi huyền thoại hoá (demythologize,
démythifier) dưới chế độ chuyên chính vô sản đóng một vai trò cực kỳ
quan trọng trong toàn bộ quá trình dân chủ hoá các xã hội đó. Và quá
trình dân chủ hoá tất yếu sẽ phá vỡ khuôn khổ của chế độ dân chủ vô sản
để dẫn đến một nền dân chủ đại nghị có thực chất.
Cũng cần lưu ý rằng một trong những nguyên nhân quan trọng khiến chủ
nghĩa Marx mất sức sống ngay trên mảnh đất nó sinh ra là chính là trình
độ dân trí. Cuộc đấu tranh để dân chủ hoá đời sống chính trị trong các
xã hội Tây Âu và Bắc Mỹ đã dẫn đến kết quả là các huyền thoại tôn giáo
không thể được sử dụng vào các mục đích chính trị được nữa. Nhà nước
được thế tục hoá, tôn giáo tách khỏi nhà nước. Các thế lực thống trị
không thể lợi dụng các huyền thoại tôn giáo để ru ngủ, lừa mị quần
chúng, biện minh cho địa vị chính trị độc quyền hoặc bào chữa cho sự áp
bức, bóc lột của họ. Tôn giáo trở về với chức năng thật sự của mình,
không can thiệp tuỳ tiện vào đời sống chính trị, do đó cũng hạn chế được
sự tha hoá bởi quyền lực. Đạo và đời được phân ranh giới
rõ rệt. Người dân nhìn những nhân vật lãnh đạo với con mắt thực tế hơn,
không sùng bái họ như những nhân vật siêu phàm, những con người huyền
thoại. Trong điều kiện ấy, các huyền thoại của chủ nghĩa Marx không thể
phát huy được tác dụng, hoặc nói đúng hơn ngày càng mất tác dụng. Ngay
cả đối với giai cấp công nhân, các huyền thoại của chủ nghĩa Marx không
thể hấp dẫn được họ, bởi vì công nhân thường có cái nhìn thực tế, không
dễ bị đánh lừa bởi những lời hô hào hoa mỹ, những lời hứa hẹn suông.
Trong khi đó, ở các nước lạc hậu, kém phát triển hơn, tức là ở các xã
hội chưa vượt ra khỏi trạng thái nô lệ tinh thần của chế độ thần quyền
dưới mọi hình thức, nơi mà người dân còn ngưỡng vọng vào những vị lãnh
tụ “anh minh”, “sáng suốt” để cứu vớt họ khỏi cuộc sống lầm than, nơi mà
các huyền thoại tôn giáo vẫn còn có tác động mạnh mẽ đến đời sống chính
trị, nơi mà thần quyền và thế quyền ràng buộc nhập nhằng
với nhau từ hàng ngàn năm trước, thì những huyền thoại của chủ nghĩa
Marx vẫn còn tìm được những mảnh đất tốt để phát triển.
Nhận thức được sự yếu kém của hệ tư tưởng mác-xít trên mảnh đất Tây Âu
và Bắc Mỹ, Lenin ngày càng mất hy vọng vào khả năng thắng lợi của cách
mạng vô sản trên mảnh đất truyền thống ấy của phong trào công nhân. Vì
vậy, ông bổ sung khẩu hiệu “Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại!”
bằng cách hướng về các dân tộc bị áp bức, tìm sức mạnh hậu thuẫn cho
Đảng bolshevik Nga trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các
nước kém phát triển. Sự khôn khéo chính trị này đã tạo nên một sức mạnh
mới cho chủ nghĩa Marx. Kể từ đó, ở một số nước Á, Phi, Mỹ la-tinh, các
huyền thoại cộng sản đã được lồng ghép một cách khéo léo với những huyền
thoại có sẵn của dân tộc, kích động lòng yêu nước của đông đảo quần
chúng. Huyền thoại “dân chủ vô sản” được biến thể thành “dân chủ mới”,
“dân chủ nhân dân”, tiếp tục trở thành lý lẽ biện minh cho các chế độ
độc tài kiểu mới mọc lên từ đống tro tàn của các chế độ quân chủ phương
Đông.
Sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới mà nòng cốt là nước Nga
xô-viết, quê hương của cuộc Cách mạng tháng Mười, đánh dấu sự tan vỡ của
những huyền thoại cộng sản, mà đáng kể hơn hết là huyền thoại ”dân
chủ vô sản”. Khi khẩu hiệu công khai (glasnost) được
Gorbachev đề ra, hàng loạt sự thật bị che giấu từ hàng chục năm được
phơi bày, người ta gần cảm thấy bàng hoàng trước sự dối trá khủng khiếp
đã làm nên huyền thoại ”dân chủ vô sản”. Trong thực tế, không hề
có một nền dân chủ vô sản mà chỉ có một nền chuyên chính nhân danh giai
cấp vô sản. Trong thực tế, không hề có một nhà nước tự tiêu vong mà chỉ
có một nhà nước toàn năng, có quyền can thiệp vào bất cứ một tổ chức xã
hội nào, bất cứ một cuộc sống riêng tư nào. Trong thực tế, không hề có
một “nhân dân làm chủ” mà chỉ có những kẻ lạm quyền, lộng quyền đội lốt
“đầy tớ của nhân dân”, nói cách khác là những kẻ nhân danh nhân dân để
thống trị chính nhân dân.
Để tóm tắt một cách sâu sắc tính chất huyền thoại của chế độ dân chủ vô
sản, chúng ta có thể mượn lại câu của Lenin viết về chế độ dân chủ tư
sản (tất nhiên phải sửa đổi lại đôi chút cho phù hợp):
Chế độ dân chủ vô sản trước sau vẫn là một chế độ dân chủ chật
hẹp, bị cắt xén, giả hiệu, giả dối; đó là một thiên đường cho những kẻ
có quyền, một cạm bẫy đối với những người thấp cổ bé họng, một cái mồi
giả dối đối với những người bị thống trị.
[2]
Lời phê phán chua cay của Lenin đối với chế độ dân chủ mà ông gán cho
cái nhãn hiệu “dân chủ tư sản”, cuối cùng lại hoàn toàn phù hợp với bản
chất của chế độ dân chủ giả hiệu do chính ông khởi xướng và được Stalin
hoàn thiện.
LÝ LUẬN
VĂN HỌC
BÌNH LUẬN
PHỎNG VẤN
VỤ ÁN LIÊN QUAN
NHÓM ĐÀLẠT
TIỂU SỬ |
|