RFA phỏng vấn Tiến Sĩ Hà Sĩ Phu
Phóng viên Việt hùng RFA phỏng
vấn Hà Sĩ Phu về bài góp ý kiến về Lý luận của Thủ tướng VVK
PHẦN I
TAY CẦM CHẮC “KIM CHỈ NAM” SAO VẪN LO CHỆCH
HƯỚNG?
VH : Về bài Góp ý kiến… của TT VVKiệt, ông có cho
đó là những ý kiến mới mẻ không và ông lưu ý đến những nội dung nào hơn
cả?
HSP : Bài góp ý kiến về công tác tổng kết lý
luận của nguyên Thủ tướng Võ văn Kiệt dày 27 trang nhưng dồn trọng lượng
vào 11 trang đầu, bởi 11 trang này vẽ ra bức tranh về sự phá sản
toàn diện của nền lý luận và tuyên truyền của ĐCSVN, nó đặt một
dấu hỏi khổng lồ không thể chối cãi vào giữa chiếc “kim chỉ nam”
dẫn đường mơ hồ của chế độ. Còn những phần khác thuộc các lĩnh vực kinh
tế, ngoại giao, sử dụng cán bộ… là những đề xuất cụ thể, hầu hết mang
tính chất “kỹ thuật” chuyên môn.
Trong phần đầu tác giả kể ra những điều bất ổn
cần xem xét lại về nội hàm của những khái niệm cơ bản như
“kim chỉ nam”, chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng là đội
tiền phong của giai cấp công nhân, công thức Đảng lãnh đạo-Nhà nước quản
lý-Nhân dân làm chủ, khái niệm “chệch hướng”, khái niệm diễn biến hòa
bình, khái niệm kinh tế quốc doanh là chủ đạo, nguyên tắc tập trung dân
chủ, khái niệm phẩm chất đảng viên…vân vân, tức là tác giả xét lại
nội hàm tất cả những gì cơ bản nhất mà bộ máy lý luận và tuyên truyền về
chính trị-tư tưởng từ trước tới nay vẫn viết và nói ra rả hết ngày này
sang ngày khác. Phần thứ hai, ông phê phán sai lầm về phương pháp tư
duy. Một nền lý luận mà sai cả khái niệm cơ bản lẫn phương pháp tư duy
thì sụp đổ trăm phần trăm chứ còn cứu vớt gì được nữa? Sự phê phán này
không phải là những luận điểm gì mới, nhưng do chính một người lãnh đạo
Cộng sản nói ra một cách mạnh mẽ ,toàn diện và sâu sắc như thế thì rất
mới.
VH : Trong hàng loạt những khái niệm mà ông
Kiệt thấy cần xem xét lại, ông thấy những khái niệm nào là quan trọng
nhất?
HSP : Tôi thấy cần chú ý đặc biệt đến khái
niệm “kim chỉ nam” và “chệch hướng”. Trong
tay lúc nào cũng lăm lăm một cái kim chỉ nam , tức cái la bàn chỉ hướng,
mà vẫn cứ đi chệch hướng ? Thế thì chỉ có hai trường hợp : một là người
sử dụng mù lòa không đọc được những gì trên mặt la bàn (tức là không
hiểu đúng nội hàm, không đọc được mã số), hai là chiếc la bàn này là la
bàn rởm. Chừng nào còn phải đóng vai một tín đồ thờ chiếc la bàn, đương
nhiên ông Kiệt không dám nói đến chuyện la bàn rởm, thì
buộc ông phải quy vào nguyên nhân thứ nhất , tức nguyên nhân không biết
đọc la bàn, là lẽ đương nhiên. Nhưng sự tự phê này chẳng thuyết phục
được ai. Ai cũng phải đặt câu hỏi : la bàn gì, cẩm nang gì mà khó đọc,
khó hiểu thế, hàng trăm triệu người đọc, đọc suốt một thế kỷ mà đọc
không ra nội hàm của nó ! Thế là cách lý giải có vẻ rất nghiêm túc và
xây dựng mà ông Kiệt đưa ra tự thân nó lại mang tính “tiếu lâm” , nên
chính nó đã ngầm chỉ ra đáp số thật của bài toán rồi.. Ông Kiệt vẫn
“đứng vững” trong quỹ đạo Cộng sản mà viết, nhưng người đọc có lý trí tự
nhiên phải bật ra ngoài quỹ đạo để tìm kết luận.Tôi nghĩ có lẽ ông Kiệt
cũng biết như thế.
VH : Ông vừa nói : nội hàm của Chủ nghĩa Mác Lê
thì thế giới đã biết rất rõ, ông Kiệt biết rất rõ. Những nhà lãnh đạo
khác của Đảng có biết rõ hay không, mà tại sao đã có một bộ máy khổng lồ
để bảo vệ định hướng ấy mà vẫn cứ bị chệch hướng ạ ?
HSP : Vâng ,đúng vậy .Một chiếc la bàn như thế
ai chẳng biết nó là quái gở , nhưng sao không vứt quách nó đi, để được
đi lại tự do như mọi người bình thường trện trái đất này, có phải sướng
cái thân không? Điều bí ẩn là ở chỗ tại sao người cầm la bàn vẫn nhất
quyết không chịu vứt nó đi, mặc dù vừa đi vừa phân bua là chệch hướng
mất rồi? Là vì chiếc la bàn này vừa là đồ rởm lại vừa không rởm , vì
chính nó đã chỉ đường cho người sử dụng nó biết cách tìm đến những kho
báu tinh vi mà chỉ anh ta mới chiếm lĩnh được, sở dĩ anh ta thành “tỷ tỷ
phú” về quyền và về tiền, chính là nhờ cái la bàn phù thủy đó,còn đoàn
người đi theo thì chẳng được gì. Điều bí ẩn của chiếc la bàn chính ở
chỗ này, chệch hướng về mặt này nhưng trúng hướng về mặt khác! Chệch với
người này nhưng trúng với người khác, vì cả dân tộc có được dự phần vào
việc chế tạo và kiểm tra chất lượng cái la bàn ấy đâu? Nội hàm của định
hướng Mác Lê thì nhân loại biết rõ quá rồi, chứ bí hiểm gì! Thế mà cứ
phải cãi nhau, vì mỗi người khai thác một kiểu khác. Đi đúng theo kim
chỉ nam Mác Lê thì đúng hướng với người độc quyền lãnh đạo, nhưng là
chệch hướng đối với dân tộc, chệch hướng với loài người. Đúng hướng tiến
hóa và đúng hướng cho dân tộc thì lại là chệch hướng Xã hội chủ nghĩa !
Cả bộ máy khổng lồ muốn kéo con tàu theo định hướng này nhưng quy luật
và nhân dân lại buộc con tàu theo định hướng khác. Vì thế mà giằng co.
VH : Vậy theo ông, lời góp ý kiến của ông Kiệt lần
này có giúp cho việc “hiểu đúng” những nội hàm của chủ nghĩa để từ nay
không bị chệch hướng nữa không?
HSP : Ông Kiệt viết : Sau một thời gian dài,
phải trả giá rất nhiều, sự đúng hướng đó đi vào ngõ cụt, đến mức
không có khả năng đi tiếp theo cái “đúng hướng” đó nữa, thì mới
tỉnh ngộ ra và mới thừa nhận rằng những điều tưởng là đúng hướng
lại là chệch, và cái tưởng là chệch lại là đúng!
Tôi nghĩ sự luẩn quẩn như ông Kiệt mô tả sẽ còn
tiếp diễn, còn lặp đi lặp lại mãi!. Chừng nào còn dùng cái la bàn “định
hướng XHCN” thì sự tranh cãi trúng hay trệch mãi mãi cứ là một sự cù
nhầy tù mù trong mê lộ, không một đại hội nào có thể gỡ ra cái mối bùng
nhùng vừa đúng vừa trệch đó, dù góp ý kiến mãi cũng thế thôi.
VH : Khi bàn về chủ nghĩa Mác-Lênin ông Kiệt cho
rằng các nhà lãnh đạo đã áp dụng sai chủ nghĩa Mác. Sai từ bao giờ ,
thời ông Kiệt làm thủ tướng còn sai hay không, sao lúc ấy ông không sửa
mà nay mới lên tiếng?
HSP : Cần phân biệt Mác sai và làm sai Mác. Chủ
nghĩa Mác khởi thủy , tức Mác giai đoạn đầu, đã có những cái sai căn bản
như quan điểm về đấu tranh giai cấp, về chuyên chính vô sản, về tư hữu
và bóc lột, về nhà nước tự tiêu vong, nhưng bên cạnh đó còn giữ được một
số nét dân chủ và nhân bản. Nhưng chuyển biến dần đến “Mác giai đoạn
sau”, đến Lênin, Stalin trở đi thì càng ngày những điểm tốt càng mất đi,
thay vào đó là những cải biến ngày càng thụt lùi về dân chủ. Ở Việt nam
thì lúc còn kháng chiến chống Pháp là một giai đoạn riêng , còn từ 1954
trở đi và nhất là sau 1975 thì quy luật là càng nắm được chính quyền
càng thụt lùi về dân chủ vì càng bộc lộ tính Tả khuynh như ông Kiệt đã
phê phán.
Ông Kiệt là người Cộng sản, không thể không quay
theo guồng máy ấy, chính Hồ Chí Minh còn phải quay theo thì trách gì ông
Kiệt. Nhưng ông Kiệt đã thể hiện quan điểm riêng tiến bộ khá sớm. Ông có
công trong việc phát triển kinh tế thị trường.Bức thư gủi Bộ Chính trị
năm 1995 và bài góp ý năm 2005 mà ta đang nói đây thể hiện những suy
nghĩ nhất quán. Năm ấy nhà cầm quyền lấy cớ khám thấy bản sao bức thư
ông Kiệt gủi Bộ Chính trị (lúc ấy đã phát tán rộng rồi) trong túi xách
của tôi để tạo ra vụ án “Lộ bí mật nhà nước”; thực chất là để trừng trị
bài Chia tay Ý thức hệ của tôi và bức thư rất tiến bộ của ông Võ văn
Kiệt. Muốn đổi mới như thế mà sau đó ông vẫn phải tự tay ký nghị định
31/CP và 96/CP rất tệ hại thì ta thấy chuyển mình trong hệ thống Cộng
sản không đơn giản chút nào. Nếu anh hỏi tôi sao bây giờ ông Kiệt mới
dám nói mạnh thì tôi lưu ý anh rằng
Khrutxốp,Gorbachop, Yenxin trước khi nắm được quyền lực họ cũng
phải nói theo guồng máy chứ có hơn gì. Người Cộng sản biết chuyển sang
dân chủ lúc nào là đáng quý lúc ấy, miễn là dân chủ thật.
PHẦN II
TẢ KHUYNH LÀ BẢN
CHẤT CHỦ NGHĨA, KHÔNG PHẢI CHỈ LÀ SAI LẦM CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO!
VH : Ông Võ văn Kiệt phê phán tư tưởng tả
khuynh, là một xu hướng chính từ trước đến nay trong nền chính trị tại
Việt nam. Ông nhìn vấn đề này ra sao?
HSP : Trong phần 2 của bài viết, Thủ tướng Võ
văn Kiệt tập trung phê phán xu hướng Tả khuynh trong
phương pháp tư duy. Ông nói: Tư tưởng tả khuynh chống lại thực tế khách
quan, chống lại trí tuệ.
Trong một phong trào mà có tả khuynh hữu khuynh thì
không phải chuyện lạ. Tả khuynh đem lại những tổn thất cũng không có gì
lạ. Nhưng chuyện lạ ở đây là sự Tả khuynh này rất ngược đời. Thông
thường thì đặc điểm bảo thủ- trì trệ-giáo điều là đặc điểm của Hữu
khuynh. Còn anh Tả khuynh vì hăng hái tiến lên quá nên thường gắn
với sự phiêu lưu-đổi mới- nóng vội. Đằng này ông Kiệt cho thấy một
thứ Tả khuynh hoàn toàn ngược : Tả khuynh mà lại gắn với bảo thủ-
trì trệ -giáo điều kia!
Bám lấy sách vở giáo điều đến mức bảo thủ trì trệ
mà thành ra Tả khuynh thì chỉ có nghĩa là chính những giáo điều ấy bản
chất nó là Tả khuynh, càng bám nó thì càng Tả khuynh, chứ còn gì khác?
Vậy Tả khuynh ở đây không phải là khuyết điểm do những cán bộ làm sai ,
do không hiểu nội hàm của chủ nghĩa, mà chính Tả khuynh nằm trong nội
hàm của chủ nghĩa. Nói sai lầm Tả khuynh là do không hiểu đúng nội hàm
của chủ nghĩa là nói ngược, là bao che cho chủ nghĩa.
VH : Vâng , điều ông nói rất phù hợp với hiện
tượng Tả khuynh cứ lặp đi lặp lại mà Ông Kiệt đã thống kê. Ông có thể giải thích kỹ hơn
về cơ chế tả khuynh này.
HSP : Thực tiễn, như ông Kiệt nói, cứ mỗi lần
Tả khuynh là thất bại, chống lại được Tả khuynh là thắng lợi, nhưng cứ
lơi lỏng đấu tranh là Đảng lại trở về Tả khuynh. Tại sao vậy?
Thật dễ hiểu. Bản chất Tả khuynh của chủ nghĩa
đã tạo môt “trường Tả khuynh” bao phủ toàn xã hội. Giống như từ trường,
điện trường, trường Tả khuynh vô hình nhưng có tính định hướng rất mạnh:
cứ cái gì cùng chiều Tả khuynh với nó là nó nống lên, nó khuyếch đại,
nó hút lên trên. Cái gì chống lại Tả khuynh , tức là thuận với trí tuệ
và thực tiễn như ông Kiệt nói (cần bổ sung : thuận với lòng người) , là
bị nó đẩy ra hoặc triệt tiêu . Trong “trường Tả khuynh “ ấy từng giây
từng phút diễn ra sự chọn lọc và đào thải theo hướng phản tiến hóa, và
cứ thế suốt 60 năm rồi, hỏi sự tử tế, trung thực, nhân ái còn sống sót
được bao nhiêu? Tình trạng có “quyền uy” đen chi phối “quyền lực”chính
là kết quả của sự độc quyền tả khuynh, gây ra bệnh sùng bái, bệnh lãnh
tụ, bệnh mafia..Cho nên không lấy làm lạ là Tả khuynh gây tác hại thế mà
không bị kỷ luật gì, trái lại chống Tả khuynh thì bị quy kết ngay là xét
lại, là phản động. Lấy cái phản động làm chuẩn để đo người tử tế thì
người tử tế lại thành phản động chứ có gì lạ.
VH : Ông nói như thế có vẻ bi quan trước xu
hướng Tả khuynh không , chẳng lẽ không có lối ra cho dân chủ?
HSP : Nhưng may thay, trong tự nhiên lại có
luật cân bằng. Suốt từ khi có chủ nghĩa tả khuynh Mác-Lê ra đời , luôn
có sự ra đời và song hành của phong trào chống Mác–Lê tả khuynh. Áp đặt
một chủ nghĩa quá Tả phy lý thì xuất hiện ngay một cánh Hữu để XÉT LẠI
chủ nghĩa đó, mà người tiêu biểu là Eduard Bernstein coi như cha đẻ của
Chủ nghĩa Xét lại, và gắn với ông là hàng loạt các đảng của trường phái
Xã hội-Dân chủ . Ở những nước mà Đảng Cộng sản độc chiếm , không mọc ra
được một đảng đối lập thì lại mọc ra những nhân vật “xét lại”, và bị
những người tả khuynh quy vào tội hữu khuynh. Dòng “Xã hội-Dân chủ ” này
ở các nước Cộng sản thì gọi là hữu khuynh, nhưng ở các nước Tư bản lại
là cánh Tả. Nếu người ta nói thiên nhiên sinh ra loài mèo là để “đính
chính” lại sự sinh ra loài chuột, thì cũng có thể ví xã hội sinh ra
dòng Xã hội-Dân chủ là sự “đính chính” lại dòng Mác-Lê tả khuynh, nên
không lấy làm lạ là nhiều Đảng Cộng sản cầm quyền sợ Xã hội-Dân chủ
như chuột sợ mèo vậy, mặc dù con mèo này thật rất ôn hoà.. Độc tài cũng
sợ Dân chủ , sợ kẻ “đính chính” mình như thế, nên chẳng có gì phải bi
quan cả.
VH : Theo ông,với tình hình cụ thể của Việt nam
hiện nay, con đường nào là thích hợp để đưa đất nước phát triển mà tránh
được xáo trộn chính trị? Việt nam có cần một tư tưởng để phát triển
không?
HSP : Con đường tốt nhất phải đáp ứng được 2
yêu cầu : phải mở đường đi tới một xã hội Dân chủ Đa nguyên
Pháp trị (tất nhiên là đa đảng), nhưng phải khả khi
. Khả thi trong thực tế Việt nam hiện nay có nghĩa là bằng con đường
tuyên truyền vận động có thể tạo được sự đồng thuận đông đảo nhất , mọi
tầng lớp, mọi nguồn gốc chính trị, trong nước và ngoài nước, kể cả những
người Cộng sản có mong muốn dân chủ …tạo thành sức mạnh tổng hợp để gây
sức ép chính trị và kinh tế , cải biến một
cách hòa bình xã hội hiện nay thành xã hội Dân
chủ-Đa nguyên- Pháp trị .
Thực ra, chỉ cần kết hợp được xu thế văn minh toàn
cầu với đặc điểm dân tộc là đủ, không cần một chủ nghĩa nào, một hệ tư
tưởng nào.
Tuy vậy từ một xã hội đang nằm dưới một ý thức hệ
độc tôn cố thủ , thì phải mượn một con đường nào đó, về hình thức thì có
nguồn gốc gần gũi với ý thức hệ ấy, về thực tế đang là một hình mẫu có
uy tín trên thế giới, thế thì dễ thuyết phục.
Các nước Bắc Âu : Na-uy, Thụy điển, Phần lan , Đan
Mạch chẳng hạn , về chính thể thì liên quan đến dòng Dân chủ-Xã hội, là
một nhánh tách ra song song với dòng Cộng sản, tức là có liên quan về
nguồn gốc lịch sử thôi, mà về thực tế thì đang là hình mẫu cao nhất về
chất lượng sống, nên có thể là xu hướng có tính thuyết phục cao để hình
thành những chuyển biến quan trọng ban đầu, sau đó thì toàn dân tộc sẽ
tìm lấy mô hình thích hợp riêng của mình, chứ cũng không phải dập khuôn
theo họ.
Cũng xin nói rõ thêm hai
điểm :
- Đây là những nước mà đảng Xã hội – Dân chủ
đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong đời sống chính trị, thậm chí trong
nhiều thời điểm trở thành đảng cầm quyền, nhưng vì họ cầm quyền thông
qua con đường bầu cử dân chủ cho nên không có sự áp đặt, loại trừ những
xu hướng khác bằng bạo lực. Do đó, những người không cộng sản trong nước
và cả ở hải ngoại không có lý do gì để e sợ con đường này. Một khi sân
chơi dân chủ được thiết lập thì mọi người có quyền bình đẳng như nhau,
không ai có độc quyền chính trị cả.
- Trào lưu Xã hội – Dân chủ hiểu theo nghĩa
rộng không chỉ bao gồm các đảng Xã hội - Dân chủ ở các nước Bắc Âu mà
còn có cả các đảng Xã hội – Dân chủ ở Đức và các nước Tây Âu. Đó là chưa
kể đến đảng Lao động Anh và các đảng tương tự ở Úc, Tân Tây Lan. Kinh
nghiệm hoạt động của họ là cả một nguồn phong phú có thể giúp nước ta
giải quyết rất nhiều vấn đề cụ thể trên mọi lĩnh vực. Vd : phát triển
kinh tế như thế nào để tránh được sự ô nhiễm môi trường, chênh lệch giàu
nghèo, bất công xã hội,v.v…
VH : Một số trí thức và lão thành cách mạng,
nhân sĩ cho rằng phải xóa bỏ chủ nghĩa Mác và áp dụng tư tưởng Hồ chí
Minh. Vậy có tư tưởng Hồ Chí Minh không, áp dụng có tốt cho đường hướng
hiện nay của Việt nam không?
HSP : Tư tưởng theo nghĩa thông thường thì ai
cũng có. Nhưng tư tưởng trong nghĩa “nhà tư tưởng”, “hệ tư tưởng” thì
chính cụ Hồ cũng bảo là mình không có.
Việc bỏ phiếu chọn con đường Lênin trong khi chưa
hiểu Đảng là gì, Công đoàn là gì, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản
là gì thì quả thực khó mà nói về một “tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Về quan điểm trị nước cụ Hồ chịu nhiều ảnh
hưởng của tư tưởng Đức trị Khổng giáo, chưa bước sang đoạn Dân chủ
pháp trị, chưa có khái niệm kinh tế thị trường.
Tuy vậy cụ Hồ đã là biểu trưng cho ngọn cờ giải
phóng dân tộc, cụ có nhiều quan niệm tốt và phương pháp tốt, nếu biết
cách áp dụng thì rất hữu ích trong những bước chuyển đổi ban đầu. Ngược
lại nếu áp dụng không đúng cũng có thể có tác dụng ngược. Về nhân vật
lịch sử Hồ Chí Minh vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, trong đó không ít ý
kiến còn cực đoan,quá tô hồng hoặc quá bôi đen.
VH : Trở lại với ông Võ văn Kiệt.Trong bài góp
ý của ông Kiệt, tuy có đưa ra một số dự kiến cho tương lai, nhưng đối
với những tồn đọng từ trong quá khứ thì chưa thấy ông đưa ra một hướng
giải quyết cụ thể nào, ông thấy thế nào?
HSP : Đấy là chỗ yếu của bài góp ý của ông
Kiệt so với một số bài góp ý của các trí thức và lão thành cách mạng
khác đã góp ý với Đại hội X. Về những quyết sách lớn liên quan đến sự
sống còn hay đào thải của chủ nghĩa Cộng sản thì tất nhiên ông Kiệt còn
phải tránh, nhưng còn nhiều việc khác đáng lẽ ông Kiệt có thể và cần bày
tỏ lập trường và giải pháp dứt khoát thì ông cũng chưa bộc lộ được trong
bài viết này.
Nếu xu hướng của ông Kiệt là “Cộng sản-Dân chủ”,
tức là Cộng sản muốn dân chủ hoá, thì tôi nghĩ cũng rất gần gũi với xu
hướng “Xã hội-Dân chủ” mà tôi đề cập ở trên.
VH : Xin cảm ơn ông. ./.
LÝ LUẬN
VĂN HỌC
BÌNH LUẬN
PHỎNG VẤN
VỤ ÁN LIÊN QUAN
TIỂU SỬ |