NHỮNG VỤ ÁN
VỀ VIỆC ÔNG HÀ SĨ PHU BỊ BẮT
Hoàng Tiến
Tôi là bạn ông Hà Sĩ Phu.
Quá trình bắt ông và xử ông tại toà án Hà Nội ngày 22.8.1996, báo chí
không được tường thuật, chỉ được đưa vài tin vắn tắt theo lệnh trên, nên
tôi thấy mình có trách nhiệm phải trình bày những điều tôi biết về vụ án
Hà Sĩ Phu, và nhân đây nói vài điều về quyền tự do dân chủ ở nước mình.
Cuối tháng 11-1995, Hà Sĩ
Phu từ Đà Lạt ra Hà Nội. Ông đi thăm họ hàng và bạn bè quen biết. Ngày
29.11.1995, tôi được công an phường Thanh Xuân Bắc (nơi tôi cư trú) mời
ra đồn, hỏi về tác giả Hà Sĩ Phu vừa ở Đà Lạt ra và những bài viết của
ông. Do đó những câu nói bất nhã thiếu lịch sự của người công an, lòng
tự trọng của một trí thức văn nghệ sĩ bị xúc phạm, tôi đã phản ứng bỏ ra
về. Sau đó tôi đã viết đơn gửi các cấp có thẩm quyền nói về việc ấy.
Trưa ngày 4.12.1995, tôi
đang trên phố Trần Hưng Đạo, bỗng gặp Hà Sĩ Phu đi xe đạp. Mừng quá, vì
tôi rất muốn gặp Hà Sĩ Phu để báo ông biết tôi bị công an hỏi. Công an
đang theo dõi ông. rồi tôi rủ ông đi ăn cơm bụi, vì vừa lĩnh mấy chục
ngàn tiền nhuận bút bài báo. Chúng tôi vào một quán ăn bình dân đầu
đường Trương Hán Siêu và Nguyễn Du. Khi chia tay, tôi còn nhắc ông nhớ
chiều đến ăn cơm ở nhà một người bạn văn, hẹn từ trước.
Buổi đó chúng tôi chờ mãi.
Tối mịt cũng không thấy Hà Sĩ Phu đến. Chúng tôi đành ngồi ăn với nhau
mà lòng dạ thấp thỏm. Linh tính như mách bảo có chuyện gì không hay đã
xảy ra với ông đây.
Mấy hôm sau cháu gái tên
Nhàn ở Đê Tô Hoàng gọi điện cho tôi, chú Tụ (tức Hà Sĩ Phu) ba hôm nay
không về nhà. Thế là có chuyện rồi. Tôi bàn với cháu cách đi tìm. Trước
hết hãy đến công an giao cảnh hỏi xem mấy hôm nay có tai nạn giao thông
gì. Tên tuổi những người bị nạn. Không có tên Hà Sĩ Phu. Vậy thì các
cháu đến công an thành phố xem có bắt giữ ông Hà Sĩ Phu xin báo cho gia
đình biết, và cho gia đình gửi quần áo đồ ăn. Công an Hà Nội trả lời
không bắt giữ. Lạ nhỉ? Các cháu đã làm đơn trình bày với công an sự mất
tích của ông chú từ Đà Lạt ra chơi, và yêu cầu họ tìm giúp hộ. Công an
Hà Nội trả lời, họ bận nhiều việc, muốn tìm người nhà mất tích thì nhờ
báo đăng hoặc ti vi.
Cháu Nhàn đã đến đài truyền
hình, nhờ đăng tin tìm người nhà, nộp 200.000 đồng, sẽ phát 3 lần trên
ti vi vào ngày hôm sau. Cháu hồ hởi báo tin cho tôi biết, và tôi rất
chăm chú theo dõi ti vi. Không có gì.
Tôi gọi điện hỏi. Cháu cũng
không hiểu sao. Cháu đến đài thì họ trả lại tiền và nói trường hợp này
phải về xin giấy chứng nhận của địa phương là mất tích thì họ mới phát.
Thật kỳ quặc!
Công an đã huýt còi bên đài
rồi. Tôi nghĩ, việc công an bắt người sau 24 giờ phải thông báo cho gia
đình biết, mới phải luật pháp. Đằng này...Tôi gọi điện cho bè bạn quen
biết ở các toà báo, nhờ can thiệp giúp, ít nhất là phải báo cho gia đình
người ta biết. Nhưng mọi nơi đều từ chối, dính đến công an phiền lắm ông
ạ. Tôi gọi điện cho ông bạn có chức quyền ở thành phố, nhờ bạn can thiệp
bên công an làm đúng thủ tục bắt người theo luật định, chứ sao lại làm
như Maphia bắt người vậy. Bạn tôi hỏi lại: Có thật thế không? Nhỡ văn
nghệ sĩ các ông giữ nhau uống rượu ba bốn ngày chưa về thì sao? Tôi
khẳng định Hà Sĩ Phu không nghiện rượu, mà dù ông có ở nhà bè bạn cũng
phải điện cho gia đình các cháu biết chứ.
Vài hôm sau thì đài nước
ngoài đưa tin Hà Sĩ Phu bị bắt. Trong nước báo chí vẫn im re. Người ta
sợ hãi nói đến tin bắt Hà Sĩ Phu. Bạn bè quen biết của Hà Sĩ Phu, ai
cũng nơm nớp có thể họ sẽ đến bắt mình.
Ngay cả tôi, vì tôi đã phản
ứng với công an điều tra. Tôi chuẩn bị sẵn một chiếc ba lô, dặn dò con
cái, khi tình huống công an xịch đến bắt đi. Lòng nghĩ tới hồi ký của
érenbourg dưới thời Staline, lúc nào cũng chuẩn bị sẵn một chiếc vali
con. Bạn quen nói: Không đến nỗi như thế đâu. Muối mặt dám làm thế.
Nhưng biết đâu được, ở một đất nước không có tự do ngôn luận, tự do báo
chí, thì việc gì cũng có thể xảy ra.
Những bài viết của Hà Sĩ
Phu đã thức tỉnh lương tri nhiều người. Tất cả mới có 3 bài thôi ("Dắt
tay nhau đi dưới tấm biển chỉ đường của trí tuệ", "Đôi điều suy nghĩ của
một công dân", "Chia tay ý thức hệ"). Đều không được báo chí in. Chỉ
chuyền tay nhau đọc. Ông phân tích tình hình thế giới, phân tích tình
hình trong nước, chỉ ra những sai lầm của chủ nghĩa Marx...v.v.. nhiều ý
kiến trái tai những người lãnh đạo. Ông rất thành thật, thực hiện quyền
của một công dân trí thức, trình bày những suy nghĩ của mình trước vận
mệnh dân tộc. Ông gửi cho những người lãnh đạo cao nhất nước, các cơ
quan báo chí, bè bạn quen biết, để xin ý kiến. Tấm lòng ông trong sáng,
ý nghĩ ông minh bạch, không một chút khuất tất và không có gì vi phạm
luật pháp.
Nhưng bây giờ người ta đã
bắt ông.
Không khí khủng bố lo ngại
lan tràn trong trí thức văn nghệ sĩ. Lại như cái năm nào bắt Dương Thu
Hương trước đại hội 7- để bịt mồm văn nghệ sĩ lại. Bây giờ bắt Hà Sĩ Phu
trước đại hội 8- để bịt mồm giới trí thức lại. Dân chủ tự do lại bị xiết
chặt - Ngột ngat - Lo - âu. Người ta cố tìm một triết lý để tự an ủi:
thì đã bao giờ ta có dân chủ tự do mà bảo sợ xiết chặt. Nghĩ thế mà thấy
yên tâm thật, mà sẵn sàng tinh thần chịu đựng một khi tai hoạ ập đến.
Việc bắt Hà Sĩ Phu mãi đến
ngãy thứ 12 công an mới thông báo cho gia đình biết, sau khi nhiều đài
nước ngoài đã nói ầm lên. Cháu Nhàn kể với tôi, có hai ông công an đến
giơ cái giấy chú Tụ (tức Hà Sĩ Phu) viết về, nói chú đến ở chỗ công an,
yêu cầu cháu đưa các đồ dùng của chú cho hai đồng chí công an cầm giấy
này mang về. Các cháu gái bình luận: họ bắt giữ thì nói là bắt giữ, lại
bắt chú cháu viết về là đến ở chỗ công an, làm như ở gia đình chúng cháu
không tốt đẹp bằng ở chỗ công an hay sao. Tôi cười bảo cháu: để họ dễ có
đường rút, họ có bắt người bố láo đâu, đây là ông Hà Sĩ Phu tự nguyện
dọn đến ở với họ đấy chứ.
Thời hạn tạm giữ theo luật
định không được quá 03 ngày đêm. Hà Sĩ Phu là lệnh tạm giữ, do trung tá
Vũ Hiền công an Hà Nội ký. Giấy này bà Hà Sĩ Phu sau mới nhận được, ghi
lý do: có hành vi chiếm đoạt tài liệu bí mật Nhà nước. Lệnh tạm giữ là 3
ngày mà rồi trở thành 9 tháng, mới được đem ra xét xử tại toà án Hà Nội.
Tôi may mắn có tham dự
phiên toà. Về cái tội danh gọi là có hành vi chiếm đoạt tài liệu bí mật
Nhà nước của ông Hà Sĩ Phu, đã bị ông lật tẩy trước phiên toà. Ông đang
đi xe đạp về phía Bờ Hồ thì bị hai người đi xe máy tông vào sau xe làm
ông ngã ra. Cái túi treo ở ghi đông văng ra đường. Có người định giật
lấy. Ông kêu lên: Cướp! Cướp! Thì công an ập đến. Bắt tất cả vào đồn
công an Hàng Bài. Đòi khám chiếc túi. Ông hỏi lý do. Họ bảo xem có mất
gì không. Ông bảo không mất gì cả. Nhưng rồi họ cứ khám và lấy được hai
bản photocopie lá thư của ông Võ Văn Kiệt gửi Bộ Chính trị đề ngày
9-8-1995 có in dấu tối mật.
Thì ra cái hành vi tông xe,
người ngã, cướp túi, không thành tội danh mà lại trở thành cái lý do để
kết tội có hành vi chiếm đoạt tài liệu bí mật Nhà nước cho người bị hại.
Lạ lùng thay, và cũng buồn
cười thay cho lối bắt người kém cải tiến như công an Hà Nội đã làm.
Nhớ lại cái lần bắt Dương
Thu Hương, công an cũng đạo diễn lớp kịch cho tên Tâm, Việt Kiều, ra sân
bay đi Mỹ. Khám va li thấy một đống những tài liệu phản động: thư ông
Nguyễn Khắc Viện gửi Mặt trận Tổ quốc, bản góp ý cảu ông Hoàng Minh
Chính gửi đại hội Đảng lần 7, kiến nghị của các cụ nghỉ hưu quận Đống Đa
gửi lãnh đạo Nhà nước...v.v. Tên Tâm khai nhận ở nhà văn Dương Thu
Hương. Và Dương Thu Hương
bị bắt. Ai cũng hiẻu rằng
trong thời đại khoa học kỹ thuật như ngày nay, chỉ cần một cái Fax lên
giời là ở nước ngoài đã nhận được một bản sao y như nguyên bản; và còn
cổ lỗ như vài chục năm về trước thì cũng đã có những máy ảnh nhỏ xíu bắt
rất nhạy thu nhỏ những tài liệu mật vào cuộn phim chỉ bằng ngón tay,
nhét vào đâu chẳng được, mà lại phải kềnh càng cho những bản kiến nghị,
bản góp ý, vào một chiếc va li để công an sân bay bắt được. Mẹo của công
an khôn, nhưng chỉ đánh lừa được những người nhẹ dạ, chứ chưa ngoan, để
bịp nổi những người có suy nghĩ đôi chút.
Trong phiên toà cả ba bị
cáo (Hà Sĩ Phu, Lê Hồng Hà, Nguyễn Kiến Giang) và ba luật sư (Đàm Văn
Hiếu- Hà Nội, Nguyễn Hữu Nhuận- Hà Tây, Trần Lâm - Hải Phòng) đều cãi
rất hay. Cái quan trọng nhất của một phiên toà là vật chứng lại không
có. (Tức là thư ông Võ Văn Kiệt gửi Bộ Chính trị ngày 9-8-1995, toà giải
thích đã gửi nộp lên văn phòng Chính phủ cất giữ bảo quản.) Người phó
văn phòng Chính phủ ký công văn xác nhận lá thư Võ Văn Kiệt là tài liệu
bí mật Nhà nước, cũng không có mặt tại phiên toà. Các luật sư lập luận:
không một ai, không một cơ quan nào được quyền xác nhận là bí mật hay
không bí mật. Điều này phải được toà xem xét và phán định dựa trên luật
pháp đã ban hành. Bị cáo Lê Hồng Hà nhận trước toà có đọc lá thư ông Võ
Văn Kiệt, vì thế mà bị cáo khẳng định, chỉ theo luật pháp, nội dung lá
thư không nằm trong 7 điều được gọi là bí mật Nhà nước đã ghi rõ trong
sách luật. Lá thư nói về đường hướng phát triển kinh tế đất nước, khu
vực kinh tế nhà nước, khu vực tinh tế tư nhân, tỷ lệ như thế nào cho hài
hoà. Những điều đó sau này đã biến thành Bản dự thảo để toàn dân tham
gia ý kiến. Có gì là bí mật.
Trớ trêu là phiên toà không
được bàn vào nội dung bức thư . Chủ toà Nguyễn Sơn điều khiển phiên toà,
chỉ cho phép bàn về hình thức có in dấu tối mật ở đầu bức thư, và căn cứ
vào công văn của văn phòng Chính phủ xác nhận bức thư la tài liệu bí mật
Nhà nước. Thật là hết sức khó khăn cho các luật sư tham gia vụ án. Thư
là thư tay của ông Võ Văn Kiệt gửi các uỷ viên Bộ Chính trị, bên chữ ký
của ông Kiệt không có dấu đỏ dấu đen gì cả. Thì cùng lắm nó là tài liệu
bí mật của Đảng, chứ sao lại thành bí mật Nhà nước được.
Các luật sư cũng chỉ ra,
kiểm sát viên buộc tội không chứng minh được sự thiệt hại nghiêm trọng
do việc làm lộ lá thư của ông Võ Văn Kiệt gửi Bộ Chính trị, được gọi là
bí mật Nhà nước. Vì thế, theo các luật sư, vụ án chưa đủ yếu tố cấu
thành tội phạm.
Luật sư Hải Phòng là Trần
Lâm đề nghị hội đồng xét xử nên bãi bỏ phiên toà, hoặc dừng lại, tiếp
tục điều tra một cái gì lớn hơn, đàng sau vụ việc này, nếu cái đó thành
tội danh thì gắn vụ việc này vào, nếu không thành thì tự nó sẽ triệt
tiêu.
Ông Hà Sĩ Phu nói lời cuối
cùng đã đặt một câu hỏi. Như bản án kết luận tội ông là cố ý làm lộ bí
mật Nhà nước, chịu khung án từ 9 tháng đến 12 tháng tù giam, trong khi
ông chỉ mới cầm tài liệu, chưa kịp đọc, đem photo làm hai bản, thì bị
tông xe và khám túi. Công an đã lấy lại cả hai bản photo. Thế mà ông bị
kết án là cố ý làm lộ bí mật Nhà nước. Vậy tất cả mọi người tham dự
phiên toà ngày hôm nay chẳng hoá ra cũng dính vào tội danh cố ý làm lộ
bí mật Nhà nước cả ư?
Cả phiên toà đã bật cười.
Lối nói của Hà Sĩ Phu vẫn rất Hà Sĩ Phu như thế!
Cả lời bàn sau phiên toà,
kiểu dân dã, bà có cái của ấy, ai bảo bà để nó ra thì người ta dòm. Sao
lại đi bắt tội cái người dòm, mà không kết tội cái người để hở. Lại có
tiếng xì xào, đáng lẽ Hà Sĩ Phu bị 9 tháng thôi, thời gian giam giữ vừa
hết hạn, nhưng vì lời nói cuối cùng mà bị đẩy lên khung án cao nhất của
ông. Một lời nói thật, bộc lộ một nhân cách kẻ sĩ, mà lĩnh
thêm 3 tháng tù. Một cái giá phải trả mang nhiều ý nghĩa đấy chứ.
Chủ toà Nguyễn Sơn, cùng
kiểm soát viên cuộc tội Phùng Tiến Lập, không bác bỏ một ý kiến nào của
các luật sư cũng như của các bị cáo, nhưng rồi cứ tuyên án theo án đã
viết sẵn từ bao giờ: Lê Hồng Hà 2 năm tù giam, Hà Sĩ Phu 12 tháng tù
giam và Nguyễn Kiến Giang 15 tháng tù cho hưởng án treo.
Thật là một màn kịch vụng
về. Vụng về ngay từ khi màn xử án. Bản cáo trạng quy tội cố ý làm lộ bí
mật Nhà nước, việc đem xét xử để làm tấm gương răn đe mọi người chớ
làm lộ bí mật Nhà nước, hẳn
phải xử công khai, đăng báo cho nhiều người tới dự, mà lấy đó làm bài
học ngẫm chung. Đằng này lại xử kín, rất ít báo chí được mời. Dân chúng
thì đừng hòng vào. Mọi người tò mò tập trung đông đúc ở cổng toà án phía
đường Hai Bà Trưng, bị công an ra giải tán. Thiếu dân chủ như vậy, mà
báo chí nào dám đưa tin.
Nghe đâu ông Võ Văn Kiệt và
ông Đỗ Mười không muốn đưa ra xử. Như thế là phải, vì ai lại nỡ bỏ tù
những người đã đọc và truyền bá ý kiến của mình. Ông Đỗ Mười và ông Võ
Văn Kiệt hiện nay đứng đầu Đảng và đứng đầu nhà Nước, có ý kiến đúng, mà
không thực thi được, thì tránh sao khỏi bị mang tiếng là người nhu
nhược. Vua mà đã nhu nhược thì quần thần lấn lướt. Sự đời là thế.
Cuộc sống mất dân chủ và
dân quyền ở đất nước đã kéo dài. Quốc hội đang họp kỳ thứ 10 của khoá 9,
vừa công bố trên ti vi, con số 497 vụ bắt người oan trong năm, tính
trung bình một ngày hơn 1 người bị bắt oan. Công an được giao quyền quá
lớn trong chiến tranh, vẫn theo quán tính con lăn, đến nay chưa thu mình
được vào luật pháp.
Chỉ kể sơ qua những vụ án
bắt oan mà nhiều người biết.
Năm 1955, vừa tiếp quản Hà
Nội được ít lâu, dấy lên vụ án gián điệp Mỹ phá hoại hiện hành. Bị cáo
là ông Nguyễn Phổ, con cụ Nguyễn Văn Vĩnh người có công truyền bá chữ
Quốc ngữ trở thành chữ viết của dân tộc hồi đầu thế kỷ, nhưng lâu nay ta
vẫn coi là một đại Việt gian. Gián điệp Mỹ Nguyễn Phổ là con một đại
Việt gian, đã chỉ đạo việc
đốt nhà máy in Tiến Bộ, thì
đúng quá đi rồi. Hợp lý quá đi rồi. Ai còn dám nghi ngờ điều gì. Ông Lê
Quốc Thân giám đốc Sở Công an Hà Nội thời bấy giờ ký lệnh bắt, cùng các
ông Nguyễn Thực trưởng phòng chính trị. Công an Hà Nội, và ông Trần Nam
Đăng tức Lê Hạp trưởng phòng chấp pháp Công an Hà Nội thời gian 1955. Ba
ông này đã làm rùm beng vụ án, xử ở sân sau Toà án Thành phố, vào ban
đêm, treo đèn, căng khẩu hiệu, rồi sau đó phát thanh, đăng báo, in áp
phích loại bướm, tuyên truyền rầm rĩ. Mục đích nhằm đề cao thành tích
của công an, và để toàn dân nâng cao cảnh giác với âm mưu phá hoại của
địch.
Ông Nguyễn Phổ bị giam 17
năm 1 tháng 1ngày (Bản án hình sự số 271 ngày 26-11-1955 Toà án Nhân dân
Hà Nội). Ngôi nhà biệt thự 25 phố Nguyễn Gia Thiều bị thu giữ, rồi trở
thành trụ sở của Ban đối ngoại Trung ương Đảng. Cuối năm 1972, ông Phổ
được thả. Sau đó ông được minh oan là vô tội, theo bản án giám đốc thẩm
số 9HS1 của Toà án Nhân dân Tối cao ký ngày 28-3-1978. Việc đốt nhà in
Tiến Bộ là dựng chuyện. Giám đốc nhà máy in Tiến Bộ đã xác nhận với cán
bộ thanh tra đi thẩm tra lại vụ án theo đơn kêu oan của ông Phổ: Không
có việc nhà in bị đốt, hồi đó làm theo yêu cầu của bên công an. Ông Phổ
lại là người của Bộ Quốc phòng, đưa vào Hà Nội hoạt động, và hiện nay
được nhận lương hưu quân đội theo quyết định số 873/QĐ của Bộ Tổng tham
mưu- Bộ Quốc phòng ký tháng 5- 1981, và được đền bù 100 triệu (tháng
8-1995)
Ông bây giờ đã ngoài 80,
hàng xóm với tôi, ông nói trường hợp của ông là muôn một may mắn được
minh oan, trong hàng vạn những người bị oan kiểu như ông. Con cái ông
nay thoát khỏi cái lý lịch phản động. Tài sản của ông được đền bù. Nhưng
ngôi nhà của ông vẫn chưa lấy lại được. Ông đã làm đơn đòi lại ngôi nhà,
và hy vọng, trước lúc hắm mắt, được Nhà nước giải quyết.
Điều kỳ lạ là, những người
tạo dựng lên vụ án không hề bị trừng phạt. Nhóm ông Lê Quốc Thân vẫn lên
chức lên lương. Nếu không vấp phải vụ đại tá tình báo Nguyễn Công Tài
(con nhà văn Nguyễn Công Hoan), thì Lê Quốc Thân lúc ấy đang làm thứ
trưởng thứ nhất Bộ Công an kiêm bí thư Đảng đoàn hẳn sẽ lên bộ trưởng.
Thời kỳ cải tạo tư sản miền
Bắc, có một sắc lệnh do thủ tướng Phạm Văn Đồng ký năm 1961, bắt tập
trung cải tạo những người có tư tưởng và hành vi chống đối chủ nghĩa xã
hội. Thế là hàng loạt những người trong cao trào công tư hợp doanh bị
đưa đi cải tạo. Rồi phong trào Nhân văn - Giai phẩm, hàng loạt văn nghệ
sĩ bị đưa đi lao động cải tạo.
Tiếp đến vụ án Xét lại
chống Đảng, hàng loạt cán bộ trung cao cấp bị đưa đi tập trung cải tạo.
Tất cả đều không có án. Thời hạn là 3 năm. Nhưng thường là gấp 2-3 lần
cái 3 năm đó, với lý do mơ hồ: chưa tiến bộ, hoặc chưa cải tạo tốt. ấy
là chưa kể trước đấy, luật Cải cách Ruộng đất đã giết oan hàng mấy ngàn
người (Chính phủ chưa công bố con số).
Ông Phạm Văn Đồng khi ký
cái sắc lệnh mơ hồ và rộng nghĩa đó, có biết đâu rằng sau chữ ký của
ông, hàng ngàn hàng vạn gia đình đã phải ly tán, cha bỏ con, chồng bỏ
vợ. Con cái mang cái lý lịch phản động không xin đâu được việc làm, học
lên cao lại càng khó. Nói ngay một người nổi tiếng như tiến sĩ luật sư
Nguyễn Mạnh Tường chỉ vì phát biểu ở Mặt trận Tổ quốc, sau những tổn
thất cải cách ruộng đất, đề nghị được làm một cuộc bỏ phiếu tín nhiệm
Chính phủ. Thế là bị vô hiệu hoá. Các chức vị giáo sư, luật sư không
được dùng. Đến mức ông muốn đi dạy Pháp văn để kiếm sống, mà không có ai
dám đến học. Ông sống lủi thủi như cái bóng, về già viết cuốn hồi ký "Un
Excommunier" (có thể dịch "Người bị đuổi khỏi cộng đồng" hoặc "Người bị
rút phép thần công") in ở bên Pháp, mà rồi sợ bị trong nước đàn áp, đã
chuẩn bị tuyệt thực cho đến chết, nếu công an rờ đến.
Ông Phạm Văn Đồng hiện nay
đã ngoài 90. Ông an hưởng tuổi già ở toà biệt thự bên Hồ Tây, hưởng cảnh
trăng trong gió mát. Tôi rất muốn những hàng chữ này lọt đến tai ông,
trước khi ông nhắm mắt xuôi tay, để ông nhìn ra một sự thật là: lòng
mong muốn sự tốt đẹp nhiều khi lại là việc độc ác.
Vụ công an bắt giữ nhà văn
nữ Dương Thu Hương đã phải trả giá. Sự phản ứng của trí thức và văn nghệ
trong nước bị o bế vẫn im re, nhưng bù vào đấy là sự công phẫn của trí
thức nước ngoài, nhất là ở Pháp. Bà Mitterand, phu nhân tổng thống Pháp
bấy giờ, sang nước ta, tuy bị công an từ chối không cho gặp nhà văn
Dương Thu Hương, nhưng bà đã gây một áp lực với giới cầm quyền. Rồi sau
đó, bằng sức ép ngoại giao, công an đã phải thả Dương Thu Hương. Thiếu
tướng công an Quang Phòng, người chỉ đạo vụ Dương Thu Hương, bị thải hồi
về hưu.
Sau khi ông Lê Đức Thọ mất,
vụ án xét lại - chống Đảng đã được ông Nguyễn Trung Thành trưởng ban bảo
vệ Đảng, người đứng thứ hai sau Lê Đức Thọ chỉ đạo vụ án, do lương tâm
thức tỉnh đã làm đơn trình bầy với Bộ Chính trị sửa sai cho 38 cán bộ
Đảng đã bị xử trí oan.
Sự mất dân chủ với dân, đã
dẫn đến sự mất dân chủ trong Đảng. Tôi đã được đọc tờ đơn của ông Lê
Liêm, nguyên trung ương uỷ viên Đảng (thời kỳ Lê Duẩn), kiến nghị việc
vô cớ khai trừ ông ra khỏi trung ương, không lập hội đồng kỷ luật, không
hỏi ý kiến cá nhân. Tôi cũng đã được đọc lá thư ông Võ Nguyên Giáp gửi
Bộ Chính trị thanh minh một số vấn đề khi giao ban nói không đúng về
ông, với yêu cầu giao ban đến cấp nào thì lá thư của ông cũng được gửi
tới cấp đó để thanh minh. Tôi cũng đã đọc lá thư của bà Vũ Đình Huỳnh
gửi Trung ương tố cáo việc bắt giữ ông Vũ Đình Huỳnh, công an đã dùng
giây thừng trói giật cánh khuỷu ông Huỳnh đưa ông ra xe (chắc có lệnh
của Lê Đức Thọ, để trấn áp ông Huỳnh) và bà đòi minh oan cho chồng. Việc
bắt ông Đặng Kim Giang thì như một vụ bắt cóc. Bà Giang đi tìm chồng
khắp nơi, đến cả dinh Hồ Chủ Tịch hỏi, cũng không biết. Người ta mách bà
đến Lê Đức Thọ. Bà đến hỏi. Lê Đức Thọ bảo: "Chị yên tâm, anh đang ngồi
viết kiểm điểm, viết xong thì về".
Những đảng viên có chức có
quyền còn bị đối xử mất dân chủ như vậy, nói chi đến dân thường thấp cổ
bé miệng. Sự mất dân chủ và tự do ở nước ta đã đến mức báo động. Nó đã
thành vật cản làm xã hội trì trệ và gây những tội ác.
Tôi khẩn thiết đề nghị các
nhà lãnh đạo Việt Nam cho thực thi dân chủ và dân quyền, cụ thể như sau:
1. Công nhận quyền làm báo
tư nhân và xuất bản tư nhân. Có như thế dân mới có phương tiện để thực
hiện dân chủ và dân quyền. Nếu không, nói dân chủ và dân quyền chỉ là
nói xạo.
2. Bãi bỏ ban Văn hoá Tư
tưởng. Thực chất nó là ban dò thám tư tưởng trí thức văn nghệ sĩ và ban
kiểm soát tư tưởng các giám đốc xuất bản và tổng biên tập các báo.
3. Buộc công an phải tuân
theo luật pháp. Nghiêm trị thật nặng những công an bắt người oan. Không
xử lý nội bộ mà đưa ra xét xử tại toà để làm gương cho mọi người. (Có
thế thì mới xoá được con số 497 vụ bắt oan - theo công bố của Quốc hội
họp kỳ thứ 10 khoá 9 tháng 11 năm 1996)
Vài lời thành thật nói
thẳng của một công dân nhà văn cao tuổi, đã tham gia Cách mạng Tháng 8,
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cho tới ngày nay. Những lời nói có
thể trái tai những nhà cầm quyền lúc này. Nhưng thuốc đắng giã tật, với
lòng mong mỏi góp phần xây dựng một đất nước phát triển không thua kém
các nước bạn trong vùng và trên thế giới.
Ngược lại, nếu những nhà
lãnh đạo Việt Nam hiện nay phiền lòng muốn trừng phạt, thì kẻ viết này,
xin sẵn sàng lãnh chịu những hình phạt với tấm lòng thanh thản đã nói
thật được nỗi lòng mình.
Hà Nội, ngày 6 tháng 11 năm
1996
Hoàng Tiến
LÝ LUẬN
VĂN HỌC
BÌNH LUẬN
PHỎNG VẤN
VỤ ÁN LIÊN QUAN
TIỂU SỬ |